Sử ký, Quyển 36 — Trần, Kỷ thế gia

Trần Hồ Công Mãn, là con cháu của Đế Thuấn nhà Ngu. Ngày xưa khi Thuấn còn là dân thường, được Nghiêu đem hai con gái gả cho làm vợ, sinh sống ở Quy nhuế, con cháu dùng tên nơi ấy làm họ, đặt ra dòng họ Quy. Thuấn mất, truyền thiên hạ cho Vũ, còn con trai của Thuấn là Thương Quân được phong là vua một nước chư hầu. Vào đời Hạ Hậu, phong quốc nhà Ngu khi còn khi mất. Đến khi Châu Võ Vương diệt Ân Trụ, bèn cho tìm con cháu Đế Thuấn, ra Quy Mãn, mới phong cho ở đất Trần, nhằm lo việc tế tự Đế Thuấn, tức Hồ Công.

Hồ Công chết, con là Thân Công Tê Hầu lên ngôi. Thân Công chết, em là Tương Công Cao Dương lên ngôi. Tương Công chết, con của Thân CôngĐột lên ngôi, tức Hiếu Công. Hiếu Công chết, con là Thận Công Ngữ Nhung lên ngôi. Thận Công nhằm vào đời Châu Lệ Vương. Thận Công chết, con là U Công Ninh lên ngôi.

U Công năm thứ 12, Châu Lệ Vương chạy đến đất Trệ.

Năm thứ 23, U Công chết, con là Hi Công Hiếu lên ngôi. Hi Công năm thứ 6, Châu Tuyên Vương tức vị. Năm thứ 36, Hi Công chết, con là Công Linh lên ngôi. Võ Công năm thứ 15, chết, con là Di Công Thuyết lên ngôi. Năm ấy, Châu U Vương tức vị. Di Công năm thứ 3, chết, em là Bình Công Tiệp lên ngôi. Bình Công năm thứ 7, Châu U Vương bị Khuyển nhung sát hại, nhà Châu dời đô sang đông. Tần bắt đầu đứng vào hàng chư hầu.

Năm thứ 23, Bình Công chết, con là Văn Công Ngữ lên ngôi.

Văn Công năm thứ nhất, cưới con gái nước Thái, sinh ra con là Đà. Năm thứ 10, Văn Công chết, con trưởng là Hoàn Công Bảo lên ngôi.

Hoàn Công năm thứ 23, Lỗ Ẩn Công lên ngôi. Năm thứ 26, Vệ giết vua là Châu Hu. Năm thứ 33, Lỗ giết vua là Ẩn Công.

Năm thứ 38, tháng giêng, ngày giáp tuấtkỷ sửu, Trần Hoàn Công Bảo chết. Hoàn Công có em trai là Đà, vì mẹ Đà là con gái nước Thái, nên Thái giết Ngũ Phụ cùng Thái tử Miễn để đưa Đà lên ngôi, tức Lệ Công. Hoàn Công đang mang bệnh thì loạn xảy ra, quốc nhân tản mác, nên cáo phó đến hai lần.

Lệ Công năm thứ 2, sinh ra con trai là Kính Trọng Hoàn. Quan Thái sử nhà Châu đi ngang Trần, Trần Lệ Công nhờ dùng Châu dịch bói hậu vận đứa bé, được quẻ quán chi bĩ, giải nghĩa rằng: “Tức hào quang chói nước, tốt ở nơi làm khách nhà vương. Người này sẽ thay Trần làm vua chăng? Không ở Trần, mà ở nước khác chăng? Không phải bản thân, mà đời con cháu chăng? Nếu ở nước khác, hẳn là họ Khương. Họ Khương là con cháu Thái nhạc. Không gì đồng thời cực thịnh, hay chỉ khi nước Trần suy, người này mới phát đạt chăng?”

Lệ Công cưới con gái nước Thái; con gái nước Thái có hành vi bừa bãi với  người Thái, còn Lệ Công cũng nhiều lần đến Thái làm chuyện dâm đãng. Năm thứ 7, Thái tử Miễn vốn vì Lệ Công mà chết còn 3 người em, lớn là Dược, thứ là Lâm, út là Xử Cữu, họ cùng nhau xúi Thái dùng mỹ nữ dụ Lệ Công, rồi hợp với Thái giết Lệ Công. Dược được tôn lên ngôi, tức Lợi Công. Lợi Công là con của Hoàn Công. Lợi Công ở ngôi được 5 tháng, chết; em kế là Lâm kế vị, tức Trang Công. Trang Công năm thứ 7, chết, em út là Xử Cữu kế vị, tức Tuyên Công.

Tuyên Công năm thứ 3, Sở Võ Vương chết, Sở bắt đầu cường thịnh. Năm thứ 17, Châu Huệ Vương cưới con gái nước Trần làm Vương hậu.

Năm thứ 21, Tuyên Công về sau có người thiếp rất được yêu chiều, sinh con trai là Khoản; vì muốn Khoản kế vị, bèn giết con trưởng là Thái tử Ngự Khấu. Ngự Khấu vốn thân với Công tử Hoàn, Hoàn sợ họa đến thân, chạy trốn sang Tề. Tề Hoàn Công muốn dùng Hoàn làm Khanh, Hoàn nói: “Thần là bề tôi cơ lữ, được trú náu dưới hiên là đã may mắn lắm; đã nhờ ân huệ nhà vua, chẳng dám đương cao vị.” Hoàn Công sai Hoàn làm Công chính. Ý Trọng nước Tề muốn gả con gái làm vợ Trần Kính Trọng, xem bói, quẻ giải: “Chính là phượng hoàng cùng lượn, hợp nhau véo von. Con cháu Hữu quy được họ Khương dưỡng dục. Năm đời phát đạt, một hàng với Chính khanh. Đến tám đời sau, quý chẳng ai sánh.”

Năm thứ 37, Tề Hoàn Công đánh Thái, Thái thua; Tề xuống phía nam xâm Sở, tiến đến Thiệu lăng, Hoàn Công đi ngang Trần. Đại phu nước Trần là Viên Đào Đồ không muốn quân Tề kéo qua Trần, lừa khiến Tề hành quân ra lối Đông đạo. Đường Đông đạo hiểm trở, Hoàn Công tức giận, bắt trói Viên Đào Đồ. Năm ấy, Tấn Hiến Công giết con là Thái tử Thân Sinh.

Năm thứ 45, Tuyên Công chết, con là Khoản lên ngôi, tức Mục Công. Mục Công năm thứ 5, Tề Hoàn Công chét. Năm thứ 16, Tấn Văn Công đánh bại quân Sở ở Thành bộc. Năm ấy, Mục Công chết, con là Cung Công Sóc lên ngôi. Cung Công năm thứ 6, Thái tử Thương Thần nước Sở giết cha là Thành Vương tự lên thay, tức Mục Vương. Năm thứ 11, Tần Mục Công chết. Năm thứ 18, Cung Công chết, con là Linh Công Bình Quốc lên ngôi.

Linh Công năm thứ nhất, Sở Trang Vương tức vị. Năm thứ 6, Sở đánh Trần. Năm thứ 10, Trần giảng hòa với Sở.

Năm thứ 14, Linh Công cùng các Đại phu Khổng Ninh và Nghi Hành Phụ đều tư thông với Hạ Cơ[1], mặc cả áo lót của Hạ Cơ đùa cợt nơi triều đường. Tiết Dã can rằng: “Vua tôi mà dâm loạn, dân há rồi chẳng học theo ư?” Linh Công nói lại với hai Đại phu, hai người xin giết Tiết Dã, Linh Công chẳng ngăn, thế là Tiết Dã bị giết. Năm thứ 15, Linh Công cùng hai Đại phu yến ẩm ở nhà Hạ thị. Linh Công đùa với hai người rằng: “Trưng Thư là con nhà ngươi.” Hai người nói: “Cũng là con của ngài.” Trưng Thư nổi giận. Linh Công tan tiệc ra về, Trưng Thư phục kích nơi cổng chuồng ngựa, bắn nỏ giết chết Linh Công. Khổng Ninh và Nghi Hành Phụ đều trốn sang Sở, Thái tử Ngọ của Linh Công trốn sang Tấn. Trưng Thư tự lập làm Trần Hầu. Trưng Thư vốn là Đại phu nước Trần. Hạ Cơ, vợ Ngự Thúc, là mẹ Trưng Thư.

Thành Công nguyên niên, mùa đông, Sở Trang Vương nhân cớ Hạ Trưng Thư giết Linh Công, dẫn chư hầu đánh Trần. Báo với Trần rằng: “Chớ kinh động, ta đến chỉ diệt Trưng Thư mà thôi.” Sau khi giết Trưng Thư, mượn dịp đặt Trần làm nước phụ dung[2] hòng chiếm hữu. Quần thần ai cũng chúc mừng, riêng Thân Thúc vừa đi sứ sang Tề quay về thì không. Trang Vương hỏi nguyên cớ, đáp: “Ngạn ngôn có chuyện rằng, có người dắt bò đi ngang ruộng người khác, bị chủ ruộng đoạt lấy bò. Băng ruộng tuy là tội, nhưng đoạt bò người ta chẳng còn quá hơn ư? Nay nhà vua vì Trưng Thư làm nghịch tặc giết vua, trưng binh chư hầu tòng nghĩa đánh dẹp, trong chốc lát đã muốn đoạt đất thủ lợi cho mình, thì sau này sẽ lấy gì hiệu lệnh thiên hạ? Nên không chúc mừng.” Trang Vương nói: “Phải.” Bèn cho đón con trai của Trần Linh Công là Thái tử Ngọ từ Tấn về nước tôn lên ngôi, tái lập vua cho Trần như trước, tức Thành Công. Khổng Tử xem sử chép đến đoạn Sở khôi phục Trần, nói: “Hiền thay Sở Trang Vương! Vứt một nước thiên thừa vì trọng một lời nói.”

Năm thứ 28, Sở Trang Vương chết. Năm thứ 29, Trần bội thề với Sở. Năm thứ 30, Sở Cung Vương đánh Trần. Năm ấy, Thành Công chết, con là Ai Công Nhược lên ngôi. Sở vì Trần có tang, bãi binh rút lui.

Ai Công năm thứ 3, Sở vây đánh quốc đô Trần, nhưng rồi lại tha. Năm thứ 28, Công tử Vi nước Sở giết vua là Giáp Ngao tự lập làm Sở Linh Vương.

Năm thứ 34; trước đấy, Ai Công cưới con gái nước Trịnh, bà Trưởng Cơ sinh Điệu Thái tử Sư, Thiếu Cơ sinh Yển. Lại còn hai người thiếp được yêu chuộng, lớn sinh Lưu, nhỏ sinh Thắng. Lưu được Ai Công thương yêu, đem phó thác với em mình là Tư đồ Chiêu. Ai Công mang bệnh suốt 3 tháng, Chiêu giết Điệu Thái tử và lập Lưu làm Thái tử. Ai Công nổi giận, muốn giết Chiêu, Chiêu khởi binh vây Ai Công, Ai Công thắt cổ tự tử. Chiêu rốt cuộc lập Lưu làm vua Trần. Tháng 4, Trần cho sứ giả đến Sở cáo phó. Sở Linh Vương được tin Trần có loạn, bèn giết sứ giả của Trần; và sai Công tử Khí Tật khởi quân đánh Trần. Trần Quân Lưu chạy sang Trịnh. Tháng 9, Sở vây quốc đô nước Trần. Tháng 11, Sở diệt Trần, cho Công tử Khí Tật làm Trần Công.

Khi Chiêu giết Điệu Thái tử, con trai của Thái tử là Ngô trốn sang Tấn. Tấn Bình Công hỏi Thái sử Triệu rằng: “Trần rồi sẽ mất chăng?” Đáp: “Trần dòng Chuyên Húc. Họ Trần phải nắm quyền bính ở Tề rồi Trần mới mất. Từ đời Mạc đến đời Cổ Tẩu, chẳng ai hại được mệnh trời trao. Thuấn lại bồi thêm công đức, nên cho đến đời Toại, đời nào cũng giữ được ân phúc. Đến đời Hồ Công, được Châu ban tính, hòng tế tự vua Ngu. Hơn nữa, con cháu những nhà nhiều đức, hẳn còn được tế tự trăm đời; thế tộc Ngu chưa dứt, chẳng vẫn còn ở Tề đấy ư?”

Sở Linh Vương diệt Trần được 5 năm, Công tử Khí Tật giết Linh Vương tự lên thay, tức Bình Vương. Bình Vương khi mới lên ngôi, muốn hòa thân với chư hầu, bèn cho tìm con trai của Điệu Thái tửNgô lập làm vua Trần, tức Huệ Công. Huệ Công lên ngôi, lấy năm Ai Công chết làm nguyên niên, nên năm tức vị là năm thứ 5.

Năm thứ 7, Trần bị hỏa tai. Năm thứ 15, Ngô Vương Liêu phái Công tử Quang đánh Trần, chiếm Hồ và Thẩm rồi rút về. Năm thứ 28, Ngô Vương Hạp Lư cùng Tử Tư đánh bại Sở và chiếm đóng Dĩnh. Năm ấy, Huệ Công chết, con là Hoài Công Liễu lên ngôi.

Hoài Công năm thứ nhất, Ngô phá Sở, vua Ngô đóng ở Dĩnh, cho mời Trần Hầu. Vua Trần muốn đến, Đại phu nói: “Ngô chỉ mới được đắc ý đây; Sở Vương tuy đang chạy trốn, nhưng nhiều ân tình cũ với Trần, chẳng thể phản bội.” Hoài Công bèn cáo bệnh thoái từ Ngô. Năm thứ 4, Ngô lại cho mời Hoài Công. Hoài Công sợ, đến Ngô. Ngô giận vì trước đây không đến, giữ lại, và rồi chết ở Ngô. Trần bèn lập con của Hoài Công là Việt, tức Mẫn Công.

Mẫn Công năm thứ 6, Khổng Tử đến Trần. Ngô Vương Phù Sai đánh Trần, chiếm 3 ấp rồi đi. Năm thứ 13, Ngô lại đến đánh Trần, Trần cấp báo với Sở, Sở Chiêu Vương đến cứu, đóng quân ở Thành phụ, quân Ngô rút lui. Cũng năm ấy, Sở Chiêu Vương chết ở Thành phụ. Lúc ấy Khổng Tử còn ở Trần. Năm thứ 15, Tống diệt Tào. Năm thứ 16, Ngô Vương Phù Sai đánh Tề, thắng Tề ở Ngải lăng, sai người đến triệu Trần Hầu. Vua Trần sợ, đến Ngô. Sở đánh Trần. Năm thứ 21, Điền Thường nước Tề giết vua là Tề Giản Công. Năm thứ 23, Bạch Công Thắng nước Sở giết Lệnh doãn Tử Tây, Tử Kỳ, đánh úp Huệ Vương. Diệp Công đánh bại Bạch Công, Bạch Công tự sát.

Năm thứ 24, Sở Huệ Vương phục quốc, rồi đem quân bắc phạt, giết Trần Mẫn Công, thế rồi diệt Trần đoạt nước. Năm ấy, Khổng Tử chết.

Kỷ Đông Lâu Công, là dòng dõi con cháu vua Vũ nhà Hạ Hậu. Vào đời Ân, con cháu nhà Hạ có lúc được phong, có lúc tuyệt. Châu Võ Vương diệt Ân Trụ, cho truy tìm con cháu của Vũ, tìm ra Đông Lâu Công, phong cho ở đất Kỷ nhằm lo việc thờ tự nhà Hạ Hậu.

Đông Lâu Công sinh ra Tây Lâu Công, Tây Lâu Công sinh ra Đề Công, Đề Công sinh ra Mưu Thú Công. Mưu Thú Công nhằm vào đời Châu Lệ Vương. Mưu Thú Công sinh ra Công, Võ Công ở ngôi 47 năm thì chết, con là Tĩnh Công lên ngôi. Tĩnh Công năm thứ 23, chết, con là Cung Công lên ngôi. Cung Công năm thứ 8, chết, con là Đức Công lên ngôi. Đức Công năm thứ 18, chết, em là Hoàn Công Cô Dung lên ngôi. Hoàn Công năm thứ 17, chết, con là Hiếu Công Cái lên ngôi. Hiếu Công năm thứ 17, chết, em là Văn Công Ích Cô lên ngôi. Văn Công năm thứ 14, chết, em là Bình Công Úc lên ngôi. Bình Công năm thứ 18, chết, con là Điệu Công Thành lên ngôi. Điệu Công năm thứ 12, chết, con là Ẩn Công Khất lên ngôi. Tháng 7, em của Ẩn Công là Toại giết Ẩn Công tự lên thay, tức Hi Công.  Hi Công năm thứ 19, chết, con là Mẫn Công Duy lên ngôi. Mẫn Công năm thứ 15, Sở Huệ Vương diệt Trần. Năm thứ 16, em của Mẫn CôngÁt Lộ giết Mẫn Công tự lên thay, tức Ai Công. Ai Công ở ngôi 10 năm thì chết, con của Mẫn CôngSóc lên ngôi, tức Xuất Công. Xuất Công năm thứ 12, chết, con là Giản Công Xuân lên ngôi. Lên ngôi được một năm, nhằm vào năm Sở Huệ Vương thứ 44, Sở diệt Kỷ. Kỷ mất sau Trần 34 năm.

Kỷ là nước nhỏ yếu, sự việc không đáng tường thuật.

Con cháu của Thuấn, được Châu Võ Vương phong ở Trần, đến đời Sở Huệ Vương bị diệt, có Thế gia kể lại. Con cháu của Vũ, được Châu Võ Vương phong ở Kỷ, cũng bị Sở Huệ Vương diệt, có Thế gia kể lại. Con cháu của Tiết là nhà Ân, Ân có Bản kỷ kể lại. Ân bị diệt, Châu phong con cháu Ân ở Tống, bị Tề Mẫn Vương diệt, có Thế gia kể lại. Con cháu của Hậu Tắc là nhà Châu, bị Tần Chiêu Vương diệt, có Bản kỷ kể lại. Con cháu của Cao Đào, có người được phong ở Anh và Lục, bị Sở Mục Vương diệt, không còn phả hệ. Con cháu của Bá Di, đến đời Châu Võ Vương được phong ở Tề, gọi là Thái Công Vọng, bị họ Trần diệt, có Thế gia kể lại. Con cháu của Bá Ế, đến đời Châu Bình Vương được phong ở Tần, bị Hạng Vũ diệt, có Bản kỷ kể lại. Còn Thùy, Ích, Quỳ, Long, con cháu chẳng rõ được phong ở đâu, không tìm ra. Mười một người này đều bề tôi tiếng tăm gây nhiều công đức vào thời Đường truyền cho Ngu; con cháu 5 trong số đó về sau đều làm đến Đế vương, số còn lại hiển danh làm chư hầu. Đằng, Tiết, Sô được phong vào các đời Hạ, Ân, Châu, nước nhỏ, không đủ quan trọng, nên không luận đến.

Vào đời Châu Võ Vương, tước hầu tước bá có trên ngàn người. Từ đời U Vương, Lệ Vương về sau, chư hầu xâm đoạt, thôn tính lẫn nhau. Các nước loại như Giang, Hoàng, Hồ, Trầm quá nhiều để tính, nên cũng không được tìm hiểu để thuật vào truyện trên.

Thái sử công nói: Đức của Thuấn đáng gọi là tuyệt cùng! Nhường ngôi cho Hạ, mà con cháu tiếp tục cúng tế, xuyên suốt Tam Đại. Đến khi Sở diệt Trần, thì Điền Thường lại nắm được quyền chính ở Tề, cuối cùng lập nước, trăm đời không tuyệt, con cháu sinh sôi thêm, chẳng khi nào không có đất đai. Còn con cháu Vũ được Châu phong ở Kỷ, nhỏ bé quá, chẳng đáng kể đến. Sở Huệ Vương diệt Kỷ, con cháu khác là Việt Vương Câu Tiễn mới nổi lên.

[1] Sử ký Chính nghĩa: Hạ Cơ là con gái của Trịnh Mục Công, vợ Trần Đại phu Ngự Thúc.

[2] Nguyên văn “huyền Trần”, hiểu cho đơn giản là đặt Trần làm một huyện. Nhưng thời điểm trong lịch sử chưa có quận huyện, nên “huyền Trần” hiểu là biến Trần thành vùng đất lệ thuộc vào mình.

Sử ký, Quyển 35 — Quản, Thái, Tào thế gia

Giới thiệu

Quản, Thái, Tào thế gia, Sử ký 35


Quản Thúc TiênThái Thúc Độ, là con của Châu Văn Vương và em của Châu Võ Vương. Anh em một mẹ với Võ Vương gồm mười người. Mẹ là bà Thái Tự, chính phi của Văn Vương. Con trưởng là Bá Ấp Khảo, kế là Võ Vương Phát, kế đến là Quản Thúc Tiên, kế đến là Châu Công Đán, kế đến là Thái Thúc Độ, kế đến là Tào Thúc Chấn Đạc, kế đến là Thành Thúc Võ, kế đến là Hoắc Thúc Xử, kế đến là Khang Thúc Phong, rồi đến Nhiễm Quý Tái. Nhiễm Quý Tái là con út. Trong số mười người anh em cùng mẹ, chỉ có Phát và Đán hiền tài, trợ giúp bên Văn Vương. Nên Văn Vương phế Bá Ấp Khảo mà chọn Phát làm Thái tử. Đến khi Văn Vương mất, Phát lên ngôi, tức Võ Vương. Bá Ấp Khảo đã chết từ trước đấy.

Vương diệt Ân Trụ, bình thiên hạ, tấn phong công thần, anh em làm chư hầu. Thế rồi phong Thúc Tiên ở đất Quản, phong Thúc Độ ở đất Thái, để hai người giúp đỡ con vua Trụ là Võ Canh Lộc Phụ cai trị tàn dân nhà Ân; phong Thúc Đán ở Lỗ nhưng giữ ở triều đình phụ giúp nhà Châu, làm Châu Công; phong Thúc Chấn Đạc ở Tào; phong Thúc Võ ở Thành; phong Thúc Xử ở Hoắc. Khang Thúc Phong và Nhiễm Quý Tái đều còn quá bé, nên chưa được phong.

Vương mất, Thành Vương còn bé, Châu Công Đán chuyên quyền vương thất. Quản Thúc và Thái Thúc nghi Châu Công toan hại cho Thành Vương, bèn ép Võ Canh gây loạn. Châu Công Đán theo lệnh Thành Vương chinh phạt, chém Võ Canh, giết Quản Thúc, và tha chết cho Thái Thúc, nhưng đuổi đi xa, chỉ cho 10 cỗ xe cùng 70 người đi theo. Và chia tàn dân nhà Ân làm hai: một phần cắt phong cho Vi Tử Khải trở thành nước Tống, kế tục việc tế tự nhà Ân; một phần phong cho Khang Thúc lập làm vua Vệ, tức Vệ Khang Thúc. Phong cho Quý Tái ở đất Nhiễm. Nhiễm Quý và Khang Thúc đều có đức tốt, thế là Châu Công đề cử Khang Thúc làm Tư khấu, Nhiễm Quý làm Tư không cho nhà Châu giúp Thành Vương cai trị, hai người đều có tiếng tăm trong thiên hạ.


Thái Thúc Độ bị đày đi xa, rồi chết. Thúc Độ có con trai là Hồ. Hồ thế rồi tu sửa tính nết, học lẽ hay, làm điều tốt. Châu Công nghe thấy, bèn cử Hồ làm Khanh sĩ ở Lỗ, nước Lỗ ai trị. Thế rồi Châu Công nói lại với Thành Vương, phục phong cho Hồ ở đất Thái, lo việc cúng tế cho Thái Thúc, tức Thái Trọng. Năm vị Thúc đều phải đến nước phong, không ai ở lại làm quan cho Thiên tử.

Thái Trọng chết, con là Thái Hoang lên ngôi. Thái Hoang chết, con là Cung Hầu lên ngôi. Cung Hầu chết, con là Lệ Hầu lên ngôi. Lệ Hầu chết, con là Hầu lên ngôi. Vào đời Võ Hầu, Châu Lệ Vương mất nước, chạy đến đất Trệ, Cung Hòa nắm chính sự, chư hầu nhiều nước phản Châu.

Hầu chết, con là Di Hầu lên ngôi. Di Hầu năm thứ 11, Châu Tuyên Vương lên ngôi. Năm thứ 28, Di Hầu chết, con là Hi Hầu Sở Sự lên ngôi.

Hi Hầu năm thứ 39, Châu U Vương bị Khuyển nhung sát hại, nhà Châu suy yếu và dời về phương đông. Tần bắt đầu được phong làm chư hầu.

Năm thứ 48, Hi Hầu chết, con là Cung Hầu Hưng lên ngôi. Cung Hầu năm thứ 2, chết, con là Đái Hầu lên ngôi. Đái Hầu năm thứ 10 chết, con là Tuyên Hầu Thố Phụ lên ngôi.

Tuyên Hầu năm thứ 28, Lỗ Ẩn Công bắt đầu lên ngôi. Năm thứ 35, Tuyên Hầu chết, con là Hoàn Hầu Phong Nhân lên ngôi. Hoàn Hầu năm thứ 3, Lỗ giết vua là Ẩn Công. Năm thứ 20, Hoàn Hầu chết, em là Ai Hầu Hiến Vũ lên ngôi.

Ai Hầu năm thứ 11. Trước đấy, Ai Hầu cưới con gái nước Trần, Tức Hầu cũng cưới con gái nước Trần. Tức Phu nhân cùng em từ Tức quay về, đi ngang Thái, bị Thái Hầu giở trò bất kính. Tức Hầu tức giận, xin với Sở Văn Vương rằng: “Hãy đến đánh nước tôi, tôi sẽ cầu cứu với Thái, Thái nhất định sẽ đến; Sở nếu nhân đấy mà đánh có thể nên công tích.” Sở Văn Vương nghe lời, bắt sống Ai Hầu đem về Sở. Ai Hầu ở Sở 9 năm chết tại Sở. Ai Hầu ở ngôi gồm 20 năm thì chết, Thái lập người con của Ai HầuHật, tức Mục Hầu.

Mục Hầu gả em gái cho Tề Hoàn Công làm Phu nhân. Năm thứ 18, Tề Hoàn Công cùng Thái Phu nhân đùa giỡn trên thuyền, Phu nhân lắc thuyền, Hoàn Công bảo thôi mà không nghe; Hoàn Công nổi giận, trả Phu nhân về Thái nhưng chưa tuyệt hôn. Thái Hầu tức giận, đem em gái gả cho người khác. Tề Hoàn Công nổi giận, đánh Thái; Thái tan vỡ, Tề bèn giam giữ Mục Hầu, tiến quân xuống phía nam đến Thiệu lăng của Sở. Sau đó chư hầu vì Thái tạ lỗi với Tề, Tề Hầu trả Thái Hầu về nước. Năm thứ 29, Mục Hầu chết, con là Trang Hầu Giáp Ngọ lên ngôi.

Trang Hầu năm thứ 3, Tề Hoàn Công chết. Năm thứ 14, Tấn Văn Công đánh bại Sở ở Thành bộc. Năm thứ 20, Thái tử nước Sở là Thương Thần giết cha là Thành Vương tự lên thay. Năm thứ 26, Tần Mục Công chết. Năm thứ 33, Sở Trang Vương lên ngôi. Năm thứ 34, Trang Hầu chết, con là Văn Hầu lên ngôi.

Văn Hầu năm thứ 14, Sở Trang Vương đánh Trần, giết Hạ Trưng Thư. Năm thứ 15, Sở đánh Trịnh, Trịnh đầu hàng, rồi được Sở trả lại nước. Năm thứ 20, Văn Hầu chết, con là Cảnh Hầu Đồng lên ngôi.

Cảnh Hầu năm thứ nhất, Sở Trang Vương chết. Năm thứ 29, Cảnh Hầu cưới vợ cho Thái tử Bàn là con gái nước Sở, rồi tư thông với người ấy. Thái tử Bàn giết Cảnh Hầu rồi tự lên thay, tức Linh Hầu.

Linh Hầu năm thứ 2, Công tử Vi nước Sở giết vua Sở là Giáp Ngao tự lên thay, tức Linh Vương. Năm thứ 9, Tư đồ nước Trần là Chiêu giết vua Trần là Ai Công. Sở phái Công tử Khí Tật diệt Trần chiếm lấy đất. Năm thứ 12, Sở Linh Vương vì Linh Hầu giết cha, dụ Thái Linh Hầu đến đất Thân, phục kích giáp sĩ mời Thái Hầu đến yến ẩm, chuốc rượu cho say rồi giết chết, còn hành hình sĩ tốt của Thái Hầu 70 người. Sở Linh Vương sai Công tử Khí Tật vây kinh đô nước Thái. Tháng 11, Thái bị diệt, Sở Linh Vương sai Khí Tật làm Thái Công[1].

Sở diệt Thái được 3 năm, Công tử Khí Tật giết Sở Linh Vương tự lên thay, tức Bình Vương. Bình Vương bèn tìm người con út của Thái Cảnh Hầu, lập làm vua Thái, tức Bình Hầu. Cũng năm ấy, Sở tái lập nước Trần. Sở Bình Vương khi mới lên ngôi, muốn hòa thân với chư hầu, nên tái lập con cháu hai nước Trần, Thái.

Bình Hầu năm thứ 9, chết, cháu nội của Linh Hầu Bàn là Đông Quốc đánh con trai của Bình Hầu rồi tự lên ngôi, tức Điệu Hầu. Cha của Điệu Hầu là Ẩn Thái tử Hữu. Ẩn Thái tử Hữu, là Thái tử của Linh Hầu, Bình Hầu lên ngôi bèn giết Ẩn Thái tử, nên khi Bình Hầu chết, con trai của Ẩn Thái tử là Đông Quốc đánh bại con trai của Bình Hầu rồi lên thay, tức Điệu Hầu. Điệu Hầu năm thứ 3, chết, em là Chiêu Hầu Thân lên ngôi.

Chiêu Hầu năm thứ 10, Thái Hầu đến chầu Sở Chiêu Vương, mang theo 2 áo lông rất đẹp, dâng một cái cho Chiêu Vương còn tự mình mặc một cái. Tướng quốc Sở là Tử Thường thèm muốn, Thái Hầu không cho. Tử Thường gièm Thái Hầu với Sở Vương, giữ Thái Hầu tại Sở 3 năm. Thái Hầu rồi hiểu ra nguyên cớ, bèn dâng áo lông cho Tử Thường; Tử Thường nhận được áo, mới nói với Sở Vương cho phép Thái Hầu về nước. Thái Hầu về đến nước bèn sang Tấn, xin cùng Tấn đánh Sở.

Năm thứ 13, mùa xuân, Chiêu Hầu cùng Vệ Linh Công hội nghị ở Thiệu lăng. Thái Hầu gặp riêng Trành Hoằng của nhà Châu xin cho mình đứng trên Vệ trong nghi lễ; Vệ sai Sử Thu đến kể lại công đức của Khang Thúc, Trành Hoằng bèn đặt Vệ ở trên. Mùa hạ, Thái vì Tấn diệt nước Trầm. Sở nổi giận, đánh Thái. Thái Chiêu Hầu cho con mình đến làm tin ở Ngô, hòng cùng nhau đánh Sở. Mùa đông, Thái cùng Ngô Vương Hạp Lư thế rồi đánh bại Sở, chiếm Dĩnh. Thái oán Tử Thường, Tử Thường sợ, trốn sang Trịnh. Năm thứ 14, Ngô rút quân và Sở Chiêu Vương phục quốc. Năm thứ 16, Lệnh doãn của Sở khóc với dân Sở quyết mưu đồ diệt Thái, Thái Chiêu Hầu lo sợ. Năm thứ 26, Khổng Tử đến Thái. Sở Chiêu Vương đánh Thái, Thái sợ, cấp báo với Ngô. Ngô vì Thái xa xôi, ước thúc đòi Thái dời kinh đến gần Ngô cho dễ cứu nhau; Chiêu Hầu tự mình chấp thuận, không bàn lại với các Đại phu. Ngô đến cứu Thái, nhân đấy chuyển Thái đến Châu lai. Năm thứ 28, Chiêu Hầu muốn đi chầu Ngô, các Đại phu sợ lại bị Ngô bắt chuyển dời, bèn sai tên giặc là Lợi giết Chiêu Hầu; rồi giết Lợi xóa tội, và lập con Chiêu HầuSóc lên ngôi, tức Thành Hầu.

Thành Hầu năm thứ 4, Tống diệt Tào. Năm thứ 10, Điền Thường giết vua là Tề Giản Công. Năm thứ 13, Sở diệt Trần. Năm thứ 19, Thành Hầu chết, con là Thanh Hầu Sản lên ngôi. Thanh Hầu năm thứ 15, chết, con là Nguyên Hầu lên ngôi. Nguyên Hầu năm thứ 6, chết, con là Tề  lên ngôi.

Thái Hầu Tề năm thứ 4, Sở Huệ Vương diệt Thái, Thái Hầu Tề mất tích, Thái thế là tuyệt tự. Thái bị diệt sau Trần 33 năm.

Ấp Khảo, con cháu không rõ được phong ở đâu. Võ Vương Phát, con cháu làm vua nhà Châu, đã có Bản kỷ kể. Quản Thúc Tiên gây loạn bị chém chết, không con cháu. Châu Công Đán, con cháu cai trị nước Lỗ, đã có thiên Thế gia riêng. Thái Thúc Độ, con cháu cai trị nước Thái, đã có Thế gia kể trên. Tào Thúc Chấn Đạc, con cháu cai trị nước Tào, cũng có Thế gia kể. Thành Thúc Võ, con cháu không thấy ở đâu nhắc đến. Hoắc Thúc Xử, con cháu vào đời Tấn Hiến Công bị Tấn diệt. Khang Thúc Phong, con cháu cai trị nước Vệ, đã có Thế gia riêng. Nhiễm Quý Tái, con cháu không thấy ở đâu nhắc đến.

Thái sử công nói: Quản Thái gây loạn, chẳng có gì đáng nhắc. Nhưng Châu Võ Vương mất, Thành Vương còn bé, thiên hạ vẫn còn nghi ngại nhà Châu, phải nhờ những người em cùng mẹ như Thành Thúc, Nhiễm Quý mười người trợ giúp, thế rồi chư hầu cuối cùng đề tôn nhà Châu, thế nên phải kèm họ vào phần Thế gia để thuật lại.


Tào Thúc Chấn Đạc, là em của Châu Võ Vương. Võ Vương sau khi diệt Ân Trụ, phong Chấn Đạc đất Tào.

Thúc Chấn Đạc chết, con là Thái lên ngôi. Thái Tì chết, con là Trọng Quân Bình lên ngôi. Trọng Quân Bình chết, con là Cung Hầu lên ngôi. Cung Hầu chết, con là Hiếu Vân lên ngôi. Hiếu Vân chết, con là Di Hỉ lên ngôi.

Di Hỉ năm thứ 13, Châu Lệ Vương chạy đến đất Trệ.

Năm thứ 30, Di chết, em là U Cường lên ngôi. U năm thứ 9, em là giết U tự lên thay, tức Đái . Đái năm thứ nhất, lúc ấy Châu Tuyên Vương lên ngôi đã 3 năm. Năm thứ 30, Đái chết, con là Huệ Hủy lên ngôi.

Huệ năm thứ 25, Châu U Vương bị Khuyển nhung giết chết, nhà Châu dời đô sang đông, ngày càng trở nên yếu kém, bị chư hầu làm phản. Tần bắt đầu được liệt vào hàng chư hầu.

Năm thứ 36, Huệ chết, con là Thạch Phủ lên ngôi, bị người em là giết chết rồi tự lên thay, tức Mục Công. Mục Công năm thứ 3, chết, con là Hoàn Công Chung Sinh lên ngôi.

Hoàn Công năm thứ 35, Lỗ Ẩn Công lên ngôi. Năm thứ 45, Lỗ giết vua là Ẩn Công. Năm thứ 46, Hoa Phụ Đốc nước Tống giết vua là Tống Thương Công cùng Khổng Phụ. Năm thứ 55, Hoàn Công chết, Trang Công Tịch Cô lên ngôi.

Trang Công năm thứ 23, Tề Hoàn Công bắt đầu làm .

Năm thứ 31, Trang Công chết, con là Hi Công Di lên ngôi. Hi Công năm thứ 9, chết, con là Chiêu Công Ban lên ngôi. Chiêu Công năm thứ 6, Tề Hoàn Công đánh bại Thái, rồi đến đất Thiệu lăng nước Sở. Năm thứ 9, Chiêu Công chết, con là Cung Công Tương lên ngôi.

Cung Công năm thứ 16. Trước đấy, Công tử Trùng Nhĩ nước Tấn lưu vong có đi ngang Tào, bị vua Tào đối đãi vô lễ, muốn xem xương sườn của Trùng Nhĩ. Hi Phụ Ky can mà vua Tào không nghe, ngầm trọng đãi Trùng Nhĩ. Năm thứ 21, Tấn Văn Công Trùng Nhĩ đánh Tào, bắt tù Tào Cung Công rồi rút về, truyền lệnh cấm binh chúng không được xâm phạm nhà cửa tông tộc Hi Phụ Ky. Có người thuyết phục Văn Công rằng: “Ngày xưa khi Tề Hoàn Công họp chư hầu, còn phục quốc cho cả người khác họ; nay nhà vua lại bỏ tù vua Tào, diệt cả nước của người cùng họ thì còn lấy gì hiệu lệnh chư hầu?” Tấn bèn hoàn phục nước Tào và trả Cung Công về nước.

Năm thứ 25, Tấn Văn Công chết. Năm thứ 35, Cung Công chết, con là Văn Công Thọ lên ngôi. Văn Công năm thứ 23, chết, con là Tuyên Công Cường lên ngôi. Tuyên Công năm thứ 17, chết, em là Thành Công Phụ Sô lên ngôi.

Thành Công năm thứ 3, Tấn Lệ Công đánh Tào, bắt tù Thành Công đem về, nhưng rồi lại thả ra. Năm thứ 5, Loan Thư và Trung hàng Yển nước Tấn phái Trình Hoạt giết vua là Tấn Lệ Công. Năm thứ 23, Thành Công chết, con là Công Thắng lên ngôi. Võ Công năm thứ 26, Công tử Khí Tật nước Sở giết vua là Linh Vương tự lên thay. Năm thứ 27, Võ Công chết, con là Bình Công Khoảnh lên ngôi. Bình Công năm thứ 4, chết, con là Điệu Công Ngọ lên ngôi. Năm ấy, Tống, Vệ, Trần, Trịnh đều bị hỏa tai.

Điệu Công năm thứ 8, Tống Cảnh Công lên ngôi. Năm thứ 9, Điệu Công đi chầu Tống, bị Tống bỏ tù. Tào tôn em của Điệu Công lên ngôi, tức Thanh Công. Điệu Công chết ở Tống, được đưa thây về Tào chôn cất.

Thanh Công năm thứ 5, em của Bình CôngThông giết Thanh Công tự lên thay, tức Ẩn Công. Ẩn Công năm thứ 4, em của Thanh CôngLộ giết Ẩn Công tự lên thay, tức Tĩnh Công. Tĩnh Công năm thứ 4, chết, con là Dương lên ngôi.

Tào Dương năm thứ 3, quốc nhân có người nằm mộng thấy một nhóm quân tử đứng nơi đền , bàn tính việc diệt nước Tào; Tào Thúc Chấn Đạc ngăn cản họ, xin đợi đến đời Công tôn Cường, và được chấp thuận. Đến sáng, người nằm mộng cho tìm kiếm, nhưng không ra người ấy. Người nằm mộng dặn dò đám con rằng: “Sau khi ta chết, chúng mày nếu nghe có Công tôn Cường lên nắm chính sự thì phải rời khỏi Tào để khỏi lụy vào họa nước.” Đến khi Tào Dương lên ngôi, đam mê việc bắn chim đồng. Năm thứ 6, có người ở vùng thảo dã thuộc nước Tào là Công tôn Cường cũng mê săn chim đồng, bắt được con nhạn trắng đem đến hiến; Tào trò chuyện với người ấy về săn bắn, nhân đấy hỏi han về chính sự. Tào rất vừa ý, thân sủng Công tôn Cường, sai ông ta giữ chức Tư thành hòng dự chính sự. Đám con của người nằm mộng thế là rời khỏi nước Tào.

Công tôn Cường đem Bá nghiệp thuyết phục Tào . Năm thứ 14, Tào nghe lời, bèn trở lưng với Tấn, còn xúc phạm cả Tống. Tống Cảnh Công đến đánh, Tấn không cứu. Năm thứ 15, Tống diệt Tào, trói dẫn Tào Dương và Công tôn Cường về nước rồi sát hại. Tào thế là tuyệt tự.

Thái sử công nói: ta khi tìm được sự Tào Cung Công không nghe lời Hi Phụ Ky, còn cho ba trăm người ngồi hiên xa, đã biết đó là vì ông ta không biết tạo đức. Đến giấc mơ có Chấn Đạc, ông ta há chẳng muốn duy trì việc tế tự nhà Tào ư? Nếu như Công tôn Cường đã chẳng đua đòi Bá đạo, việc tế tự Chấn Đạc có khi đã chẳng chợt dứt?

[1] Công ở đây không phải là tước, mà là chức quan cai trị tương đương Huyện lệnh.

Sử ký, Quyển 34 – Yên Thiệu Công thế gia

Giới thiệu

Yên Thiệu Công thế gia, Sử ký 34


1g3234216-0

Thiệu Công Thích

Thiệu Công Thích là bà con một dòng với nhà Châu, cũng họ Cơ[1]. Châu Võ Vương sau khi diệt Trụ, phong cho Thiệu Công ở Bắc Yên[2].

Vào đời Thành Vương, Thiệu Công ở ngôi Tam công: từ ấp Thiểm sang tây, Thiệu Công cai quản, từ ấp Thiểm sang đông, do Châu Công cai quản. Thành Vương còn bé, Châu Công nhiếp chính, ngồi trên ngai trị nước; Thiệu Công sinh nghi, bèn làm bài Quân thích. Quân thích làm muộn lòng Châu Công, Châu Công bèn tuyên cáo rằng: “Đời Thang nhờ người như Y Doãn mới thấu đến hoàng thiên; đời Thái Mậu nhờ người như Y Trắc, Thần Hỗ, Vu Hàm coi giữ vương tộc, mới động đến lòng Thượng đế; đời Tổ Ất nhờ người như Vu Hiền, đời Võ Đinh nhờ người như Cam Bàn; nhờ công lao họ nhà Ân mới yên bình.” Thiệu Công sau đó mới an dạ.

Thiệu Công cai quản phương tây, rất được lòng triệu dân. Thiệu Công tuần hành hương ấp, gặp nơi có cây đường lê, bèn ngồi xử quyết án ngục và chính sự ngay dưới cây ấy; từ Hầu¸ Bá xuống đến thứ nhân đều đúng chức phận, chẳng ai sai trách nhiệm. Thiệu Công mất, chúng dân mến nhớ nền chính trị của Thiệu Công, giữ cây đường lê không dám đốn, đặt lời ca vịnh, làm nên bài Cam đường.

Từ Thiệu Công xuống 9 đời thì đến Huệ Hầu. Yên Huệ Hầu ở ngôi nhằm vào lúc Châu Lệ Vương chạy đến đất Trệ, tức thời Cộng hòa[3].

Huệ Hầu chết, con là Hi Hầu lên thay. Năm ấy, Châu Tuyên Vương vừa lên ngôi. Hi Hầu năm thứ 21, Trịnh Hoàn Công bắt đầu được phong ở Trịnh. Năm thứ 36, Hi Hầu chết, con là Khoảnh Hầu lên thay.

Khoảnh Hầu năm thứ 20, Châu U Vương vì dâm loạn bị Khuyển nhung giết chết. Tần bắt đầu được đứng vào hàng chư hầu.

Năm thứ 25, Khoảnh Hầu chết, con là Ai Hầu lên ngôi. Ai Hầu năm thứ 2, chết, con là Trịnh Hầu lên ngôi. Trịnh Hầu năm thứ 36, chết, con là Mục Hầu lên ngôi.

Mục Hầu năm thứ 7, nhằm Lỗ Ẩn Công năm thứ nhất. Mục Hầu năm thứ 18, chết, con là Tuyên Hầu lên ngôi. Tuyên Hầu năm thứ 13, chết, con là Hoàn Hầu lên ngôi. Hoàn Hầu năm thứ 7, chết, con là Trang Công lên ngôi.

Trang Công năm thứ 2, Tề Hoàn Công bắt đầu làm . Năm thứ 16, Yên cùng Tống và Vệ tiến đánh Châu Huệ Vương. Huệ Vương chạy đến đất Ôn, ba nước lập em trai của Huệ Vương là Đồi làm vương. Năm thứ 17, Trịnh bắt Trọng phụ của Yên và đưa Huệ Vương về lại Châu. Năm thứ 27, Sơn Nhung đánh Yên, Tề Hoàn Công đến cứu, tiến lên phương bắc đánh Sơn Nhung rồi rút về. Vua Yên tiễn Tề Hoàn Công khỏi biên cảnh, Hoàn Công cắt đất từ nơi vua Yên đặt chân đến trở lại tặng Yên. Tề nói Yên tiếp tục triều cống Thiên tử như vào thời Thành châu; và bảo Yên phục tu pháp độ của Thiệu Công. Năm thứ 33, Trang Công chết, con là Tương Công lên ngôi.

Tương Công năm thứ 26, Tấn Văn Công mở hội nghị ở Tiễn thổ, xưng . Năm thứ 31, quân Tần thất trận ở đất Hào. Năm thứ 37, Tần Mục Công chết. Năm thứ 40, Tương Công chết, Hoàn Công lên ngôi.

Hoàn Công năm thứ 16, chết, Tuyên Công lên ngôi. Tuyên Công năm thứ 15, chết, Chiêu Công lên ngôi. Chiêu Công năm thứ 13, chết, Công lên ngôi. Năm ấy Tấn diệt ba Đại phu họ Khích.

Công năm thứ 19, chết, Văn Công lên ngôi. Văn Công năm thứ 6, chết, Ý Công  lên ngôi. Ý Công năm thứ nhất, Thôi Trữ giết vua là Tề Trang Công. Năm thứ 4, Văn Công chết, con là Huệ Công lên ngôi.

Huệ Công năm thứ nhất, Cao Chỉ nước Tề trốn đến Yên. Năm thứ 6, Huệ Công, vốn lắm sủng cơ, muốn bỏ các Đại phu và thay họ bằng người sủng cơ là Tống. Các Đại phu hợp nhau giết Tống. Huệ Công hoảng sợ, trốn sang Tề.

Bốn năm sau, Cao Yển của Tề đến Tấn, xin hợp quân đánh Yên nhằm đưa vua Yên về nước. Tấn Bình Công nhận lời, cùng Tề đánh Yên, đưa Huệ Công về nước. Huệ Công về đến Yên thì chết. Yên tôn Điệu Công lên ngôi.

Điệu Công năm thứ 7, chết; Cung Công lên ngôi. Cung Công năm thứ 5, chết; Bình Công lên ngôi. Công thất nhà Tấn ngày càng yếu kém, Lục khanh bắt đầu cường thịnh. Bình Công năm thứ 18, Ngô Vương Hạp Lư đánh bại Sở, tiến quân vào Dĩnh. Năm thứ 19, Bình Công chết, Giản Công lên ngôi. Giản Công năm thứ 12, chết; Hiến Công lên ngôi. Tại Tấn, Triệu Ưởng đánh họ Phạm và Trung hàng ở Triều ca. Năm thứ 12, tại Tề, Điền Thường giết vua là Giản Công. Năm thứ 14, Khổng Tử chết. Năm thứ 28, Hiến Công chết, Hiếu Công lên ngôi.

Hiếu Công năm thứ 12, Hàn, Ngụy, Triệu diệt Trí , chia nhau đất họ Trí, Tam Tấn cường thịnh.

Năm thứ 15, Hiếu Công chết, Thành Công lên ngôi. Thành Công năm thứ 16, chết; Mẫn Công lên ngôi. Mẫn Công năm thứ 31, chết; Hi Công lên ngôi. Năm ấy, Tam Tấn được đứng vào hàng chư hầu.

Hi Công năm thứ 30, Yên đánh Tề, thắng ở Lâm doanh. Hi Công chết, Hoàn Công lên ngôi. Hoàn Công năm thứ 11, chết; Văn Công lên ngôi. Năm ấy, Tần Hiến Công chết, Tần ngày càng thêm hùng cường.

Văn Công năm thứ 19, Tề Uy Vương chết. Năm thứ 28, Tô Tần lần đầu đến ra mắt, thuyết phục Văn Công. Văn Công tặng ông ta ngựa xe, vàng lụa để đi thuyết phục Triệu, được Triệu Túc Hầu nghe lời. Tô Tần nhân đấy lập ước với sáu nước, làm Tung ước trưởng. Tần Huệ Vương gả con gái làm vợ Thái tử nước Yên.

Năm thứ 29, Văn Công chết, Thái tử lên ngôi, tức Dịch Vương.

Dịch Vương khi mới lên ngôi, Tề Tuyên Vương nhân khi Yên đang có tang đến đánh, chiếm 10 thành; Tô Tần đến thuyết phục Tề, khiến Tề giao trả 10 thành ấy cho Yên. Năm thứ 10, vua Yên xưng vương. Tô Tần tư thông với Phu nhân của Văn Công, sợ bị giết, bèn thuyết phục Dịch Vương cho mình đi sứ sang Tề để làm phản gián, nhằm làm loạn nước Tề. Dịch Vương ở ngôi 12 năm thì chết, con là Yên Vương Khoái lên thay.

Yên Khoái lên ngôi, Tề giết Tô Tần. Tô Tần khi còn ở Yên, làm thông gia với Tướng quốc nước Yên là Tử Chi, còn Tô Đại thì kết giao với Tử Chi. Đến khi Tô Tần chết, Tề Tuyên Vương lại dùng Tô Đại. Yên Khoái năm thứ 3, Yên cùng Sở và Tam Tấn đánh Tần, nhưng không thắng phải rút quân. Tử Chi làm Tướng quốc nước Yên, hiển quý quyền trọng, chuyên quyết quốc sự. Tô Đại đi sứ từ Tề về Yên, được Yên Vương hỏi: “Tề Vương thế nào?” Đáp: “Hẳn sẽ chẳng nên nghiệp .” Yên Vương hỏi: “Sao thế?” Đáp: “Vì không tin tưởng bề tôi.” Tô Đại nói thế nhằm kích động Yên Vương đề tôn Tử Chi. Từ đó Yên Vương hết lòng tín cẩn Tử Chi. Tử Chi bèn biếu Tô Đại trăm cân vàng và làm theo lời Đại xúi bảo.

Lộc Mao Thọ nói với Yên Vương rằng: “Chẳng gì bằng đem nước nhường cho Tướng quốc Tử Chi. Người ta khen Nghiêu hiền, là vì Nghiêu nhường thiên hạ cho Hứa Do. Vì Hứa Do không nhận, nên Nghiêu được tiếng biết nhường thiên hạ mà thực tế chẳng hề mất thiên hạ. Nay nếu nhà vua đem nước nhường cho Tử Chi, Tử Chi ắt sẽ không dám nhận, thế thì nhà vua một hạng với Nghiêu vậy.” Yên Vương bèn đem nước phó thác cho Tử Chi, Tử Chi trở nên vô cùng quyền thế. Có người còn nói: “Vũ tuy đề cử Ích, nhưng lại dùng người của Khải làm quan. Đến khi Vũ già, cho rằng Khải không đáng giữ thiên hạ, mới truyền ngôi cho Ích. Thế rồi Khải cùng bè đảng đánh Ích, đoạt ngôi. Thiên hạ nói Vũ tuy tạo tiếng truyền thiên hạ cho Ích, nhưng thực chất khiến Khải tự đoạt lấy. Nay nhà vua tuy nói là giao phó quốc gia cho Tử Chi, nhưng các quan lại chẳng ai không là người của Thái tử. Như thế là tạo danh phó thác cho Tử Chi, nhưng thực chất Thái tử cầm quyền vậy.” Yên Vương bèn thu hồi ấn triện tất cả quan viên trật tam bách thạch trở lên giao cho Tử Chi. Tử Chi thế rồi ngồi hướng mặt xuống phía nam nắm vương sự, còn Khoái vì già lão thôi nghe chính sự, trở thành bề tôi. Tất cả việc nước đều do Tử Chi quyết định.

Trong vòng 3 năm, nước Yên đại loạn, bách tính kinh hãi. Tướng quân Thị Bị hợp mưu với Thái tử Bình đánh Tử Chi. Các tướng nói với Tề Mẫn Vương rằng: “Nếu nhân lúc này dây vào, ắt toàn phá được Yên.” Tề Vương bèn sai người nói với Thái tử Bình rằng: “Quả nhân có nghe đến đạo nghĩa của Thái tử, bỏ tư lo công, chỉnh tu nghĩa lý quân thần, làm rõ cái lẽ cha con truyền vị. Nước của Quả nhân tuy bé, chẳng đủ dùng làm tiên phong hay hậu bị, nhưng dành riêng chờ Thái tử sai khiến.” Thái tử Bình dựa vào đấy lập đảng tụ chúng, cùng Tướng quân Thị Bị vây cung điện, đánh Tử Chi, nhưng không thắng. Tướng quân Thị Bị trở mặt đánh Thái tử Bình. Tướng quân Thị Bị chết, bị phơi thây làm gương. Thế là đôi bên gây nên loạn lạc suốt mấy tháng, làm chết đến hàng vạn người, dân chúng kinh hoàng, bách tính lìa tan. Mạnh Kha nói với Tề Vương: “Lúc này mà đánh Yên, tựa như thời cơ của Văn Vương, Võ Vương, chẳng thể để mất.” Tề Vương bèn truyền lệnh sai Chương Tử thống lĩnh quân ngũ đô dựa vào người miền bắc đánh Yên. Sĩ tốt Yên không chống cự, thành trì cũng không đóng cổng; Yên Quân Khoái chết; Tề đại thắng; Tử Chi bỏ trốn. Hai năm sau, người Yên hợp nhau tôn Thái tử Bình lên ngôi, tức Yên Chiêu Vương[4].

Yên Chiêu Vương lên ngôi sau khi Yên bị tàn phá, nên nhún mình chiêu đãi hiền sĩ. Chiêu Vương nói với Quách Ngỗi rằng: “Tề nhân khi nước loạn, đánh úp phá vỡ Yên. Ta biết Yên nước nhỏ thế yếu, không đủ sức báo thù. Nhưng tìm cho ra một hiền sĩ để cùng lo quốc sự, rửa mối nhục Tiên vương, đấy là chí nguyện của . Người nào Tiên sinh thấy làm được điều ấy, sẽ tự mình phụng sự.” Quách Ngỗi nói: “Nhà vua nếu nhất định muốn trọng dụng hiền sĩ, hãy bắt đầu từ Ngỗi đây. Người nào hiền tài hơn Ngỗi, há còn nề hà ngàn dặm xa xôi ư!” Chiêu Vương bèn xây sửa lầu ốc cho Ngỗi và thờ ông ta làm thầy.  Thế là Nhạc Nghị từ Ngụy đến, Trâu Diễn từ Tề lên, Kịch Tân từ Triệu sang, sĩ nhân tranh nhau đến Yên. Yên Vương nhún mình phúng điếu người chết, thăm hỏi người cô quả, cùng bách tính đồng cam cộng khổ.

Năm thứ 28, nước Yên giàu có, sĩ tốt nhẹ lòng với chiến tranh; thế rồi cất Nhạc Nghị làm Thượng Tướng quân, cùng Tần, Sở, và Tam Tấn họp mưu đánh Tề. Quân Tề bại trận, Mẫn Vương trốn khỏi kinh thành. Riêng mình quân Yên truy đuổi, tiến vào Lâm truy, đoạt hết bảo khí, đốt phá cung thất, Tông miếu nước Tề. Các thành Tề chưa hạ chỉ còn Liêu, Cử, và Tức mặc, còn lại đều thuộc về Yên suốt 6 năm.

Chiêu Vương năm thứ 33, chết; con là Huệ Vương lên ngôi.

Huệ Vương khi còn là Thái tử, có hiềm khích với Nhạc Nghị; đến khi lên ngôi, nghi ngờ Nghị, bèn sai Kỵ Kiếp thay Nghị làm tướng. Nhạc Nghị chạy đến Triệu. Điền Đan nước Tề thống lĩnh Tức mặc đánh bại quân Yên, Kỵ Kiếp chết trận; quân Yên dẫn nhau rút về, Tề đoạt lại tất cả những thành cũ. Mẫn Vương đã chết ở Cử, con ông ta được tôn lên ngôi, là Tề Tương Vương.

Huệ Vương năm thứ 7, chết. Hàn, Ngụy, Sở cùng nhau đánh Yên. Yên Võ Thành Vương lên ngôi.

Võ Thành Vương năm thứ 7, Điền Đan dẫn quân Tề đánh Yên, hạ Trung dương. Năm thứ 13, Tần đánh bại 40 vạn quân Triệu ở Trường bình. Năm thứ 14, Võ Thành Vương chết, con là Hiếu Vương lên ngôi.

Hiếu Vương năm thứ nhất, Tần vây Hàm đan rồi giải vây rút về. Năm thứ 3, Hiếu Vương chết, con là Hỉ lên ngôi.

Yên Vương Hỉ năm thứ 4, Tần Chiêu Vương chết. Yên Vương sai Tướng quốc Lật Phúc ước thân với Triệu, dùng 500 dật vàng làm quà tặng Triệu Vương uống rượu. Lật Phúc về nước báo lại với Yên Vương rằng: “Trai tráng nước Triệu đã chết cả ở Trường bình, đám con côi chưa lớn, Triệu có thể đánh được.” Yên Vương gọi Xương quốc Quân Nhạc Gian đến hỏi. Đáp rằng: “Triệu là nước bốn mặt chiến trường, dân chúng quen binh bị, chẳng thể đánh.” Yên Vương nói: “Ta dùng năm chọi một.” Đáp: “Vẫn không được.” Yên Vương tức giận, quần thần ai cũng bèn cho là Triệu có thể đánh. Cuối cùng Yên khởi quân hai cánh, chiến xa 2.000 cỗ, dùng Lật Phúc làm tướng đánh đất Hạo, Khanh Tần làm tướng đánh đất Đại. Riêng mỗi Đại phu Tướng Cừ nói với Yên Vương rằng: “Đã thông quan lập ước với người ta, còn đem năm trăm dật vàng làm quà tặng vua người ta uống rượu, thế mà sứ giả mới về báo, lại phản bội đến đánh, là điều bất tường. Quân binh sẽ chẳng nên công.” Yên Vương không nghe, tự dẫn 1.000 quân theo sau tiếp ứng. Tướng Cừ nắm dây thao của Yên Vương kéo lại, nói: “Nhà vua nhất định đừng tự mình đi, vì có đi cũng sẽ chẳng nên công.” Yên Vương tức tối đá Tướng Cừ. Tướng Cừ khóc nói: “Thần làm thế nào phải vì chính mình, mà là vì nhà vua đấy!” Yên Vương đến Tống tử, Triệu dùng Liêm Pha làm tướng, đánh bại Lật Phúc ở Hạo. Nhạc Thừa đánh bại Khanh Tần ở Đại. Nhạc Gian chạy sang Triệu. Liêm Pha truy đuổi quân Yên hơn 500 dặm, bao vây quốc đô nước Yên. Yên xin hòa đàm, Triệu không cho, bắt Yên phải dùng Tướng Cừ đàm phán. Yên chịu dùng Tướng Cừ, Triệu thuận lời Tướng Cừ, mở vòng vây.

Năm thứ 6, Tần diệt Đông và Tây Châu, đặt thành quận Tam xuyên. Năm thứ 7, Tần hạ Du thứ gồm 37 thành của Triệu, đặt quận Thái nguyên. Năm thứ 9, Tần Vương Chính bắt đầu lên ngôi. Năm thứ 10, Triệu sai Liêm Pha cầm quân đánh hạ Phồn dương. Triệu Hiếu Thành Vương chết, Điệu Tương Vương lên ngôi, sai Nhạc Thừa thay Liêm Pha, Liêm Pha không nghe, tấn công Nhạc Thừa, Nhạc Thừa bỏ chạy, Liêm Pha trốn đến Đại lương. Năm thứ 12, Triệu phái Lý Mục đánh Yên, hạ Võ toại. Kịch Tân vốn từng ở Triệu, thân với Bàng Noãn, nhưng rồi trốn sang Yên. Yên thấy Triệu nhiều lần bị Tần làm khốn, Liêm Pha lại đã đi mất, phải dùng đến Bàng Noãn làm tướng, muốn nhân khi Triệu yếu đến đánh. Hỏi Kịch Tân, Tân nói: “Bàng Noãn dễ đối đầu thôi.” Yên sai Kịch Tân làm tướng đánh Triệu, Triệu sai Bàng Noãn đánh trả, bắt được 2 vạn quân Yên, giết Kịch Tân. Tần đánh hạ 20 thành nước Ngụy, đặt thành Đông quận. Năm thứ 19, Tần đánh hạ đất Nghiệp của Triệu gồm 9 thành. Triệu Điệu Tương Vương chết. Năm thứ 23, Thái tử Đan vốn đang làm con tin ở Tần, trốn về Yên. Năm thứ 25, Tần bắt Hàn Vương An làm tù binh, đặt Hàn làm quận Dĩnh xuyên. Năm thứ 27, Tần bắt tù Triệu Vương Thiên, diệt Triệu. Công tử Gia nước Triệu tự lập làm Đại Vương.

Yên thấy Tần sắp diệt 6 nước, quân Tần đã tiến sát sông Dịch, họa sắp đến với Yên. Thái tử Đan ngầm nuôi dưỡng tráng sĩ 20 người, sai Kinh Kha hiến địa đồ đất Đốc kháng cho Tần rồi nhân dịp đâm chết Tần Vương. Tần Vương phát giác, giết Kha, sai Tướng quân Vương Tiễn đánh Yên. Năm thứ 29, Tần đánh hạ thành Kế của Yên, Yên Vương chạy trốn, dời đến ở Liêu đông, chém đầu Đan dâng cho Tần. Năm thứ 30, Tần diệt Ngụy.

Năm thứ 33, Tần đánh hạ Liêu đông, bắt Yên Vương Hỉ làm tù binh, cuối cùng diệt Yên. Năm ấy, tướng Tần là Vương Bôn cũng bắt Đại Vương Gia làm tù binh.

Thái sử công nói: Thiệu Công Thích đáng gọi là người nhân. ‘Cam đường’ còn nhớ đến ông, huống chi là người. Yên phía bắc đè nén người Man hạc, mặt trong ngăn đỡ Tề, Tấn, lặn ngụp trong giới cường quốc, là nước yếu nhỏ nhất, nhiều lần suýt bị diệt. Thế mà Xã tắc được an hưởng đến tám, chín trăm năm, trong số các nước họ Cơ lại bị diệt sau cùng, há chẳng nhờ công tích Thiệu Công đấy ư!

[1] Nhiều sách cổ và chữ khắc đỉnh, chóe đồng đời Châu lại nói Thiệu Công là con người vợ thứ của Văn Vương, tức anh em cùng cha khác mẹ với Võ Vương và Châu Công.

[2] Thực ra người con trưởng của Thiệu Công Thích được phong ở Yên, Thiệu Công được phong ở Thiệu, nằm ở tây nam Kỳ sơn.

[3] Cha con Tư mã Thiên hiểu lầm đây là thời các quan hòa đồng hợp nhau nắm chính trị. Theo khảo cổ với chứng cứ chữ khắc đồ đồng, thời này Cung Hòa nắm quyền.

[4] Trên thực tế, vẫn còn nhiều hoài nghi Yên Chiêu Vương là ai. Theo Sử ký, Thập nhị chư hầu niên biểu, Yên Vương Khoái, Thái tử, và Tử Chi đều chết trong loạn lạc. Trúc thư kỷ niên cũng chép rằng Tử Chi giết Công tử Bình. Còn Sử ký, Triệu thế gia lại chép: Triệu Võ Linh Vương hay tin Yên có loạn, cho mời Công tử Chức từ nước Hàn đến, lập làm Yên Vương, sai Nhạc Trì đưa về. Triệu thế gia có lẽ lại là đúng nhất, vì gần đây các nhà khảo cổ đào được một số võ khí từ giai đoạn này, trên có khắc “Yên Vương Chức.”

Sử ký, Quyển 33 – Lỗ Châu Công thế gia

Giới thiệu

 

Lỗ Châu Công thế gia, Sử ký quyển 33


14195841761640

Châu Công Đán

Châu Công[1] Đán, là em của Châu Võ Vương[2]. Khi Văn Vương còn sống, Đán làm con hiếu thảo, nhân từ, trung hậu, hơn hẳn các anh em. Đến khi Võ Vương lên ngôi, Đán thường trợ giúp Võ Vương, nắm nhiều trọng trách. Năm thứ 9, Võ Vương đông phạt tiến quân đến Mạnh tân, Châu Công đi theo phù tá. Năm thứ 11, Võ Vương đánh Trụ, đến Mục dã, có Châu Công giúp lập lời Mục thệ. Quân Châu đánh bại nhà Ân, tiến vào cung điện triều Thương.  Sau khi Trụ đã bị giết, Châu Công cầm đại việt, Thiệu Công cầm tiểu việt, đứng hai bên Võ Vương, làm lễ thoa máu nơi đền tuyên cáo tội trạng của Trụ với trời và dân chúng nhà Ân[3]. Võ Vương thả Cơ Tử khỏi ngục; cắt đất phong cho con của Trụ là Võ Canh Lộc Phụ[4] hòng tiếp tục hương khói nhà Ân, sai Quản Thúc và Thái Thúc phụ tá; và cắt đất phong cho tất cả các công thần cũng như bà con trong họ. Châu Công Đán được phong ở gò cũ của Thiếu Hạo tại Khúc phụ, làm Lỗ Công[5]. Châu Công không đến phong quốc mà ở lại kinh đô phụ tá Võ Vương.

00114320c9e60c2cd58019

Trận Mục dã

Sau khi diệt Ân được hai năm, vì thiên hạ vẫn chưa quy phục tân triều, Võ Vương mang bệnh, tâm trí bất an, quần thần lo sợ, Thái Công và Thiệu Công bèn bói rùa xem hậu vận. Châu Công nói: “Chưa thể nhọc lòng các tiên vương nhà ta[6]. Châu Công bèn lấy bản thân làm tế sinh, lập ba cái đàn[7]. Châu Công đứng hướng mặt lên phía bắc, đeo ngọc bích, bưng ngọc khuê[8], khấn với Thái Vương, Vương Quý, và Văn Vương, sai người viết lời khấn xuống thẻ tre rằng: “Con cháu dòng đích các ngài là nhà vua Phát, chuyên cần lao lực, nhuốm bệnh vào thân. Nếu ba đức tiên vương còn nợ ở trời một người con, hãy dùng Đán đây thay vào mệnh thể của nhà vua Phát. Đán lanh lợi, khéo tay giỏi nhiều trò, biết cách phụng sự quỷ thần. Còn nhà vua Phát không khéo tay lắm nghề như Đán, chẳng thể phụng sự quỷ thần. Hơn nữa, thân vua còn mang nặng trọng trách thiên đình cai quản tứ phương, vận dụng khả năng an bài con cháu các ngài ở hạ giới; chúng dân nơi nơi chẳng đâu không kính sợ; đã không lơ đễnh sơ xuất mệnh trời, mà các tiên vương cũng vĩnh viễn có nơi nương tựa[9]. Nay Đán xin nhận mệnh truyền thông qua mu rùa[10]. Các ngài nếu chấp thuận lời Đán, Đán sẽ đeo ngọc bích, bưng ngọc khuê về nhà đợi chờ số mệnh. Còn không, Đán sẽ cất đi.”

Châu Công sai sử quan viết lời khấn với với Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương bày tỏ tâm trạng muốn thế thân cho Võ Vương Phát, sau đó đến trước bài vị của ba vị tiên vương xủ quẻ. Những người bói đều nói: “Quẻ cát, cứ mở sách bói mà xem, tin chắc là cát.” Châu Công mừng rỡ, tháo then ống chứa sách, mở ra thấy quả là cát [11]. Châu Công bèn vào cung chúc mừng Võ Vương rằng: “Nhà vua sẽ vô hại. Đán vừa có lời mệnh từ ba vị tiên vương, ngài sống còn lâu để dựng cho nốt cơ đồ. Lo được việc ấy chỉ riêng mỗi mình ngài. Châu Công cất thẻ ghi lời khấn vào rương sắt, răn người coi giữ cấm không cho nhắc đến. Hôm sau, bệnh tình của Võ Vương thuyên giảm.[12]

Thế rồi Võ Vương mất, Thành Vương bé, vẫn còn bọc trong yếm tã[13]. Châu Công sợ thiên hạ hay tin Võ Vương đã mất sẽ khởi loạn, bèn lên ngôi[14] thay Thành Vương nắm chính sự. Quản Thúc cùng mấy người em tung tin trong nước rằng: “Châu Công sắp hại Thành Vương.” Châu Công bèn tỏ bày với Thái Công Vọng và Thiệu Công Thích rằng: “Sở dĩ ta không hề nề hà thay nhà vua lo chính sự, là vì sợ thiên hạ sẽ phản Châu, thì chẳng còn gì để báo đáp các vị tiên vương Thái Vương, Vương Quý, và Văn Vương. Ba vị tiên vương vì thiên hạ nhọc trí mất bấy lâu, đến nay cơ sự mới thành. Võ Vương mất sớm, Thành Vương còn bé, vì muốn hoàn thành sự nghiệp nhà Châu, ta mới phải làm thế.” Rốt cuộc ở lại trợ giúp Thành Vương, và sai con trưởng Bá Cầm thay mình đến phong địa ở Lỗ. Châu Công răn Bá Cầm rằng: “Ta là con Văn Vương, em Võ Vương, chú Thành Vương, trong thiên hạ địa vị chẳng thấp.  Nhưng ta mỗi lần gội ba lần giữ tóc, mỗi bữa ăn ba lần nhả cơm, vì phải đứng lên tiếp đãi sĩ nhân, sợ thất thoát hiền sĩ thiên hạ. Mày đến Lỗ, cẩn thận chớ cậy có nước mà kiêu ngạo với người ta.”

Quản, Thái, Võ Canh thế rồi thống lĩnh người Hoài di làm phản. Châu Công phụng mệnh Thành Vương, cất quân đông phạt, viết lời Đại cáo[15]. Cuối cùng chém Quản Thúc, giết Võ Canh, đuổi Thái Thúc. Thu tập tàn dân dư sót của nhà Ân, phân phong Khang Thúc ở Vệ, Vi Tử ở Tống để Vi Tử lo phụng thừa hương hỏa nhà Ân. Bình định đất đai miền đông là vùng người Hoài di, mất 2 năm mới yên ổn. Chư hầu ai cũng thần phục nhà Châu.

Trời ban phước lành, Đường Thúc có cây lúa tuy khác gốc nhưng trổ cùng một bông, bèn đem hiến Thành Vương. Thành Vương lại sai Đường Thúc đem tặng Châu Công đang ở miền đông, sáng tác bài  Quỹ hòa[16]. Châu Công nhận xong cây lúa, rất vừa ý với món quà của Thiên tử, sáng tác bài Gia hòa[17]. Miền đông đã chịu thần phục, Châu Công về triều báo cáo với Thành Vương, bèn làm bài thơ tặng vương, đặt tên là Si hào[18]. Nhưng lúc ấy vương vẫn còn chưa dám ban bảo Châu Công.

Thành Vương năm thứ 7, tháng 2 ngày ất mùi, vương vào buổi sớm từ Châu đi bộ đến Phong[19]. Ông sai Thái bảo Thiệu Công trước tiên đến Lạc dương khảo sát địa thế. Tháng 3 cùng năm ấy, Châu Công đến đấy dựng Thành châu và Lạc ấp. Vốn khi xủ quẻ được quẻ cát, nên lập quốc đô ở đấy.

Thành Vương khôn lớn, bắt đầu biết nghe chính sự.  Châu Công bèn giao trả quyền chính cho Thành Vương, để Thành Vương ngồi lâm triều. Khi Châu Công còn thay Thành Vương trị vì, ngồi hướng mặt phía nam, sau lưng giăng màn phủ y [20], chư hầu đứng chầu[21]. Bảy năm sau, khi trả chính sự về Thành Vương, Châu Công đứng hướng mặt phía bắc, cung cần kính nể.

Trước đó, khi Thành Vương còn bé, có lần lâm bệnh, Châu Công bèn cắt móng tay mình thả xuống sông, khấn với thần linh rằng: “Nhà vua còn bé chưa biết gì, kẻ ngỗ ý đức thần chính là Đán đây.” Thẻ ghi lại lời khấn ấy cũng được cất vào rương. Bệnh tình Thành Vương sau đó thuyên giảm. Đến khi Thành Vương cầm quyền, có người gièm pha Châu Công, Châu Công trốn xuống Sở[22]. Đến khi Thành Vương mở rương, đọc được lời khấn của Châu Công, bèn khó, cho mời Châu Công quay về.

Châu Công trở về, Thành Vương đang tuổi khôn lớn, sợ Thành Vương sinh thói dâm dật biếng nhác, bèn viết nên thiên Đa sĩVô dật. Vô dật dạy rằng: “Làm cha mẹ chúng dân, tạo nên sự nghiệp trường cửu, nhưng nếu con cháu kiêu xa quên đi điều đó, sẽ làm mất cơ nghiệp; nên làm con cháu há thể bất cẩn vậy! Ngày xưa vua Trung Tông nhà Ân, nghiêm trang tôn kính mệnh trời, liệu chừng mực trị dân, sợ sệt không dám phóng đảng, nên Trung Tông ở ngôi bảy mươi lăm năm. Đời Cao Tông, lâu ngày lao khổ nơi đồng dã cùng tiểu dân làm lụng, được cất lên ngôi, liền thủ phận cư tang, suốt ba năm im lặng, một khi mở miệng ai ai cũng mừng; không hề dám phóng túng, giữ yên nước Ân, đến nỗi mọi ai bất kỳ lớn nhỏ không hiềm không oán, nên Cao Tông ở ngôi năm mươi lăm năm.  Đời Tổ Giáp, không thích làm vương, lâu ngày quen chung sống với tiểu dân, thấu hiểu nỗi khổ của họ, nên biết bảo bọc, giúp đỡ tiểu dân, nhờ thế Tổ Giáp ở ngôi ba mươi ba năm.” Thiên Đa sĩ dạy rằng: “Từ Thang đến Đế Ất, không ai không siêng tế tự, phổ cập đạo đức, các đế chẳng ai không xứng mệnh trời. Gần đây truyền đến Trụ, tham dâm thất đạo, không đoái lý trời lòng dân. Người Ân ai cũng cho là đáng giết.” Và nói: “Châu nhiều nhiều nhân sĩ, Văn Vương từ trưa đến xế chiều không thể ngồi xuống dùng bữa, ở ngôi năm mươi năm.” Châu Công viết các thiên ấy nhằm răn dạy Thành Vương.

Thành Vương đóng đô ở Phong, thiên hạ đã an, nhưng hành chính, quan chức nhà Châu chưa thành hệ thống, vì thế Châu Công viết Châu quan, mỗi quan sở có phận sự riêng thích đáng, viết Lập chính, chú trọng lợi ích cho dân. Trăm họ vui mừng.

Châu Công ở Phong, thọ bệnh, sắp mất, nói: “Nhất định phải chôn ta ở Thành châu, chứng tỏ ta không dám xa lìa Thành Vương.” Châu Công mất rồi, Thành Vương cũng khiêm nhượng, mai táng Châu Công ở Tất, chôn theo Văn Vương, bày tỏ mình phận con cháu không dám xem Châu Công là bề tôi.

Khi Châu Công mất, vụ mùa mùa thu chưa thu hoạch, chợt có giông bão sấm chớp, lúa má rạp ngang, đại thụ trốc gốc. Trong nước cả kinh. Thành Vương cùng các Đại phu mặc triều phục, mở rương sắt xem lại các văn bằng, lúc ấy mới thấy bài khấn của Châu Công xin thế thân cho Võ Vương. Hai Đại phu cùng Thành Vương đem hỏi quan chủ quản các viên Chấp sự, chủ quản nói: “Quả thế. Trước đây Châu Công truyền lệnh cấm được nói ra.” Thành Vương cầm di từ khóc và nói: “Không cần bói rùa nữa chăng. Trước đây Châu Công chuyên cần cực lực phù tá vương thất, mà riêng ta thơ dại không rõ. Nay trời mới động uy biểu dương đức độ Châu Công, ta là con cháu phải tiếp nhận, quốc lễ, gia lễ đều cần sửa đổi cho phù hợp.” Thành Vương ra khỏi thành tế Giao, trời bèn đổ mưa và nổi gió thổi ngược, lúa má lại đứng lên. Hai Đại phu bèn truyền lệnh khắp kinh thành sai trồng lại các cây đã trốc gốc và lèn cho vững. Năm ấy, rất được mùa. Thế là Thành Vương truyền mệnh cho phép nước Lỗ được dùng lễ Giao tế Văn Vương. Lỗ được phép dùng lễ Thiên tử là vì để ca tụng công đức Châu Công vậy.

Châu Công chết, con là Bá Cầm vốn từ trước đã được thụ phong làm Lỗ Công[23]. Lỗ Công Bá Cầm khi mới được phong ở Lỗ, 3 năm sau mới báo cáo với Châu Công về chính trị nước Lỗ, Châu Công hỏi: “Sao mà chậm thế?” Bá Cầm đáp: “Sửa phong tục, cải cách lễ, tang sự phải xong ba năm mới được xóa, nên chậm.” Thái Công cùng lúc được phong ở Tề, sau 5 tháng đã báo cáo về chính trị nước Tề. Châu Công hỏi: “Sao nhanh thế?” Đáp: “Ta giản tiện lễ quân thần, làm gì thì cứ dựa theo phong tục bản địa.” Sau này khi nghe lời Bá Cầm báo cáo, bèn than rằng: “Than ôi, hậu thế nước Lỗ chắc phải ngưỡng mặt thờ Tề! Cai trị mà không giản tiện thì dân không gần; còn công bằng dễ dãi gần gũi với dân, ắt được dân theo.”

Sau khi Bá Cầm lên ngôi, Quản, Thái khởi loạn, người Hoài di, Từ nhung cũng đều nổi lên làm phản. Bá Cầm bèn dẫn quân đánh họ ở Hật, đặt lời Hật thệ, nói: “Chỉnh tề giáp trụ, cấm dám gian mạnh, cấm hại gia súc. Trâu hoang ngựa lạc, tỳ thiếp trốn loạn, cấm rời hàng ngũ đuổi theo đoạt bắt, phải cẩn trọng trả về chủ cũ. Cấm dám cướp bóc, trèo tường khoét vách. Dân Lỗ vùng tam giao, tam toại[24] phải tích cỏ rơm, trữ lương khô, cột ván, cấm dám không hoàn chỉnh. Ta đến ngày giáp tuất sẽ xây lũy đánh Từ nhung. Cấm dám trễ hẹn, sẽ bị tử hình.” Lỗ Công đặt xong lời thề, bèn bình định Từ nhung, giữ yên nước Lỗ.

Lỗ Công Bá Cầm chết, con là Khảo Công lên ngôi. Khảo Công ở ngôi 4 năm thì chết, em là Hi lên ngôi, tức Dương Công.  Dương Công cho xây cổng Mao khuyết. Dương Công ở ngôi 6 năm thì chết, con là U Công Tể lên thay. U Công ở ngôi được 14 năm, bị em là Phí giết chết đoạt ngôi, tức Ngụy Công. Ngụy Công ở ngôi 50 năm thì chết, con là Lệ Công Trạc lên thay. Lệ Công ở ngôi 37 năm thì chết, người Lỗ tôn em ông ta là Cụ lên ngôi, tức Hiến Công. Hiến Công ở ngôi 32 năm thì chết, con là Thận Công Tị lên thay.

Thận Công năm thứ 14, Châu Lệ Vương vô đạo, trốn kinh thành chạy đến đất Trệ, Cung Hòa nắm quyền chính. Năm thứ 29, Châu Tuyên Vương lên ngôi.

Năm thứ 30, Thận Công chết, em là Ngao lên ngôi, tức Công.

Công năm thứ 9, mùa xuân, Võ Công cùng con trưởng là Quát, con thứ là Hí vào kinh triều kiến Châu Tuyên Vương. Tuyên Vương mến Hí, muốn lập Hí làm Thái tử nước Lỗ. Phàn Trọng Sơn Phụ can Tuyên Vương rằng: “Phế trưởng lập thứ không hợp đạo lý; nếu không nghe lời, là cưỡng mệnh vua; đã cưỡng mệnh vua, ắt phải giết; nên vua đã truyền mệnh thì chẳng thể không nghe. Truyền lệnh mà không tuân, thì khuôn phép không thành; tuân mà trái đạo lý, thì dân lìa bỏ bề trên. Phàm dưới thờ trên, nhỏ thờ lớn, đều nhờ đạo lý. Nay Thiên tử lập vua chư hầu, mà con người con thứ, là dạy dân làm trái lý. Nếu Lỗ tuân lời, chư hầu bắt chước, thì vương mệnh[25] có điều bế tắc; còn nếu bất tuân bị giết, thì hóa tự mình đã giết đi vương mệnh. Giết cũng sai, không giết cũng sai, xin nhà vua hãy tính lại.” Tuyên Vương không nghe, cuối cùng lập Hí làm Thái tử nước Lỗ. Mùa hạ, Võ Công về nước, chết. lên thay, tức Ý Công.

Ý Công năm thứ 9, con trai của Quát là Bá Ngự hợp với người Lỗ tấn công, giết chết Ý Công, và tôn Bá Ngự lên ngôi. Bá Ngự ở ngôi được 11 năm, Châu Tuyên Vương đánh Lỗ, giết Bá Ngự, và hỏi tìm trong số các công tử nước Lỗ người nào có thể làm gương cho chư hầu để nối dòng nước Lỗ. Phàn Trọng Mục nói: “Em trai Lỗ Ý Công là Xưng, kính cẩn mẫn tiệp, biết thờ phụng ông cha; mỗi lần đánh thuế hay trị tội đều tra cứu di huấn và tiền lệ; cốt không phạm di huấn, không trái tiền lệ.” Tuyên Vương nói: “Được. Người này có thể giáo huấn dân.” Bèn lập Xưng lên ngôi ở Di cung, tức Hiếu Công. Từ đó về sau, chư hầu nhiều người trái vương mệnh.

Hiếu Công năm thứ 25, chư hầu phản Châu, Khuyển nhung giết U Vương. Tần bắt đầu đứng trong hàng chư hầu.

Năm thứ 27, Hiếu Công chết. Con là Phất Hoàng lên ngôi, tức Huệ Công.

Huệ Công năm thứ 30, Tấn giết vua là Chiêu Hầu. Năm thứ 45, Tấn lại giết vua là Hiếu Hầu.

Năm thứ 46, Huệ Công chết, người con lớn tuổi nhất thuộc ngành thứ[26]Tức tạm thế quyền nắm việc nước, tức Ẩn Công. Trước đấy, Phu nhân của Huệ Công không có con trai, tiện thiếp là Thanh Tử sinh ra Tức. Tức trưởng thành, cưới vợ từ Tống. Con gái nước Tống đến Lỗ, hình dáng xinh đẹp, Huệ Công bèn tự đoạt lấy làm vợ, sinh con trai là Doãn. Huệ Công lập con gái nước Tống làm Phu nhân, Doãn làm Thái tử. Đến khi Huệ Công chết, vì Doãn còn bé, người Lỗ hợp nhau tôn Tức lên thế quyền trị nước, nhưng không nói là ‘lên ngôi.’

Ẩn Công năm thứ 5, đến đất Đường xem đánh cá[27]. Năm thứ 8, Lỗ đổi ấp Banh ở núi Thái vốn thuộc Thiên tử cho Trịnh lấy ruộng Hứa điền, bị người quân tử khiển trách.

Năm thứ 11, mùa đông, Công tử Huy ton hót với Ẩn Công rằng: “Bách tính trọng ngài, ngài nên tức vị. Ta xin giết Doãn giúp ngài, nếu ngài dùng ta làm Tướng quốc.” Ẩn Công nói: “Tiên quân đã có mệnh truyền. Ta vì Doãn hãy còn bé, tạm thế quyền. Khi nào Doãn lớn, ta đang xây ấp ở Thổ cừu để dưỡng lão, hoàn trả quyền chính cho Doãn.” Huy sợ Doãn nghe lại lời ấy sẽ giết mình, bèn trở ngược gièm Ẩn Công với Doãn rằng: “Ẩn Công muốn lên ngôi, bỏ ông, ông nên trừ ông ta. Xin vì ông giết Ẩn Công.” Doãn chấp thuận. Tháng 11, Ẩn Công tế lễ Chung vu, bày đàn ở Xã phố, trọ ở Ngoa thị. Huy sai người giết Ẩn Công ở Ngoa thị, tôn Doãn lên ngôi, tức Hoàn Công.

Hoàn Công nguyên niên, Trịnh lấy ngọc bích đổi lấy ruộng Hứa điền vốn thuộc Thiên tử. Năm thứ 2, Lỗ đưa cái đỉnh Tống tặng vào Thái miếu, bị người quân tử cười chê.

Năm thứ 3, Hoàn Công sai Huy đi đón con gái nước Tề cưới làm Phu nhân. Năm thứ 6, Phu nhân sinh con trai, cùng ngày sinh với Hoàn Công, nên đặt tên là Đồng. Đồng lớn được làm Thái tử.

Năm thứ 16, Lỗ họp với chư hầu ở Tào, đánh Trịnh, đưa Trịnh Lệ Công về nước.

Năm thứ 18, mùa xuân, Hoàn Công muốn cùng Phu nhân đến Tề, họp bàn với các Đại phu; Thân Nhu khuyên can không nên đi, Hoàn Công không nghe, bèn đến Tề. Tề Tương Công tư thông với Phu nhân của Hoàn Công. Hoàn Công giận Phu nhân, Phu nhân báo lại với Tề Hầu. Mùa hạ tháng 4 ngày bính tí, Tề Tương Công thết rượu Lỗ Hoàn Công; Hoàn Công say, Tương Công sai Công tử Bành Sinh dìu Hoàn Công lên xe, nhân đấy xiết hai bên sườn của Hoàn Công, Hoàn Công chết trên xe. Người Lỗ báo lại với Tề nói: “Vua côi tệ quốc sợ uy nhà vua, không dám ngồi yên, đến Tề cho trọn lễ giao hảo.  Lễ tất mà không về được, tội không người quy, xin được giao Bành Sinh để xóa tiếng xấu với chư hầu.” Tề bèn giết Bành Sinh để nguôi lòng Lỗ. Lỗ lập Thái tử Đồng lên ngôi, tức Trang Công. Phu nhân, mẹ Trang Công, ở lại Tề, không dám về Lỗ.

Trang Công năm thứ 5 mùa đông, Lỗ đánh Vệ, đưa Vệ Huệ Công về nước.

Năm thứ 8, Công tử Củ nước Tề chạy sang Lỗ. Năm thứ 9, Lỗ đưa Công tử Củ về Tề, nhưng đến muộn hơn Tề Hoàn Công, Tề Hoàn Công cất quân đánh Lỗ, Lỗ nguy kịch, bèn giết Công tử Củ. Thiệu Hốt tự sát. Tề nói với Lỗ đòi tống độ Quản Trọng. Người Lỗ là Thi nói: “Tề đòi cho được Quản Trọng, hẳn chẳng để giết mà để dùng; hắn nếu được dùng sẽ thành mối lo cho Lỗ. Không bằng giết trước rồi trả thây cho Tề.” Trang Công không nghe, bèn nhốt Quản Trọng vào xe tù đưa sang Tề. Tề lập Quản Trọng làm Tướng quốc.

Năm thứ 13, Lỗ Trang Công cùng Tào Mạt họp với Tề Hoàn Công ở đất Kha. Tào Mạt uy hiếp Hoàn Công, đòi giao trả đất đai Tề đã chiếm của Lỗ, bắt ăn thề rồi mới buông. Hoàn Công muốn nuốt lời, Quản Trọng can, cuối cùng Tề trả đất cho Lỗ. Năm thứ 15, Tề Hoàn Công bắt đầu làm . Năm thứ 23, Trang Công đến Tề xem tế Xã.

Năm thứ 32, trước đấy, Trang Công xây đài nhìn xuống nhà họ Đảng, thấy cô con gái trưởng (Mạnh nữ), phải lòng, hứa lập làm Phu nhân, đã cắt ngón tay thề thốt. Người ấy sinh con trai là Ban. Ban lớn, mê con gái nhà họ Lương, bèn đến tìm ngắm. Ngự nhân Lạc[28] từ phía ngoài tường đùa cợt với con gái họ Lương. Ban tức, đánh đòn Lạc. Trang Công nghe nói, nói: “Lạc dũng lực, phải giết đi; chẳng thể chỉ đánh đòn rồi tha.” Nhưng Ban vẫn chưa giết được Lạc. Ngay lúc ấy, Trang Công ngã bệnh. Trang Công có 3 em trai, lớn là Khánh Phụ[29], kế đến là Thúc Nha, kế nữa là Quý Hữu. Trang Công cưới con gái nước Tề làm Phu nhân, là Ai Khương. Ai Khương không có con trai; em Ai Khương là Thúc Khương sinh con trai là Khai. Trang Công không có con đích, lại yêu Mạnh nữ, muốn lập Ban làm Thái tử. Trang Công bệnh, đem việc kế tự hỏi em là Thúc Nha. Thúc Nha nói: “Mỗi lần sau con nối cha là đến em nối anh[30], đó là lệ thường nước Lỗ. Khánh Phụ còn đó, có thể kế tự, nhà vua sợ gì?”[31] Trang Công sợ Thúc Nha muốn lập Khánh Phụ, cho Thúc Nha lui ra và hỏi Quý Hữu. Quý Hữu nói: “Xin đem cái chết mà lập Ban.” Trang Công hỏi: “Mới đây Thúc Nha muốn lập Khánh Phụ, phải làm thế nào?” Quý Hữu mượn lệnh Trang Công bắt Nha đợi lệnh tại nhà họ Châm vu, và sai Châm Quý buộc Thúc Nha uống rượu độc, nói: “Uống vào thì còn con cháu để được phụng thờ; bằng không, sẽ chẳng còn đứa con cháu nào.” Thúc Nha bèn nuốt rượu độc mà chết, Lỗ lập con ông ta làm họ Thúc tôn. Tháng 8 ngày quý hợi, Trang Công chết, Quý Hữu cuối cùng lập Ban lên ngôi theo di mệnh Trang Công. Trong khi còn đang thị tang, trú ở nhà họ Đảng[32].

Từ trước, Khánh Phụ đã tư thông với Ai Khương, nên muốn lập Khai. Đến khi Trang Công chết và Quý Hữu lập Ban, tháng 10 ngày kỷ mùi, Khánh Phụ sai ngự nhân Lạc giết Công tử Ban tại nhà họ Đảng. Quý Hữu trốn sang Trần. Khánh Phụ bèn lập Công tử Khai, tức Mẫn Công.

Mẫn Công năm thứ 2, tình cảm giữa Khánh Phụ và Ai Khương càng đậm đà. Ai Khương cùng Khánh Phụ mưu giết Mẫn Công đưa Khánh Phụ lên ngôi. Khánh Phụ sai Bặc Nghĩ tập kích giết Mẫn Công ở Võ vi. Quý Hữu được tin, từ Trần cùng em Mẫn Công là Thân đến nước Chu, xin Lỗ đưa về nước. Người Lỗ muốn giết Khánh Phụ. Khánh Phụ hoảng sợ, chạy đến Cử. Quý Hữu bèn đưa Thân về nước tôn lên ngôi, tức Hi Công. Hi Công là con thứ của Trang Công. Ai Khương lo sợ, chạy đến Chu. Quý Hữu hối lộ với Cử để bắt Khánh Phụ; Khánh Phụ về Lỗ, Quý Hữu sai người giết Khánh Phụ, Khánh Phụ xin lưu vong sang nước khác, Quý Hữu không nghe, rồi sai Đại phu Hề Tư vừa đi vừa khóc đến gặp. Khánh Phụ nghe tiếng Hề Tư khóc, bèn tự sát. Tề Hoàn Công được tin Ai Khương cùng Khánh Phụ gây nguy loạn cho Lỗ, sai người đến Chu đưa Ai Khương về Tề và giết đi, đưa thi thể đến Lỗ phanh thây. Lỗ Hi Công xin đem chôn cất.

Mẹ Quý Hữu là con gái nước Trần, nên Quý Hữu chạy sang Trần, Trần cũng vì thế trợ sức Quý Hữu và Thân. Quý Hữu khi sắp sinh, cha là Lỗ Hoàn Công sai bói rùa, được giảng: “Là con trai, tên Hữu, ngôi vị nằm giữa hai tòa , làm phụ bật cho công thất. Nó mà lìa nước, Lỗ sẽ không hưng.” Đến khi ra đời, có chữ trên tay là ‘hữu’, bèn đặt làm tên, hiệu là Thành Quý[33]. Con cháu Quý Hữu sau này trở thành nhà họ Quý, con cháu Khánh Phụ trở thành nhà họ Mạnh[34].

Hi Công nguyên niên, lấy ấp Phí ở phía bắc sông Vấn[35] phong Quý Hữu. Quý Hữu làm Tướng quốc.

Năm thứ 9, Lý Khắc nước Tấn giết vua là Hề Tề và Trác Tử. Tề Hoàn Công dẫn Hi Công trừ loạn giúp Tấn, tiến quân đến Cao lương. Sau đó rút về, lập Tấn Huệ Công lên ngôi. Năm thứ 17, Tề Hoàn Công chết. Năm thứ 24, Tấn Văn Công lên ngôi.

Năm thứ 33, Hi Công chết, con là Hưng lên ngôi, tức Văn Công.

Văn Công nguyên niên, Thái tử nước Sở là Thương Thần giết cha là Thành Vương lên thay. Năm thứ 3, Văn Công đến Tấn triều kiến Tấn Tương Công.

Năm thứ 11, tháng 10, ngày giáp ngọ, Lỗ thắng Địch ở đất Hàm, bắt đầu lĩnh Trường địch là Kiều Như; Phú phụ Chung Sanh dùng qua đâm cổ hắn giết đi, chôn đầu tại cổng Tử câu, và tên hắn được dùng đặt cho Tuyên [36].

Trước đấy, vào thời Tống Võ Công, người Sưu man đánh Tống, Tư đồ Hoàng Phụ cầm quân án ngữ, đánh bại chúng ở Trường khâu, giết đầu lĩnh Trường địch là Diên Tư. Đến khi Tấn diệt Lộ, nhằm năm Lỗ Tuyên Công thứ 15, bắt được em Kiều Như là Phần Như. Tề Huệ Công năm thứ 2, Sưu man đánh Tề, Vương tử Thành Phụ nước Tề bắt em của Kiều Như là Vinh Như, chôn đầu hắn ở cổng bắc. Nước Vệ còn bắt được người em út là Giản Như. Người Sưu man từ đấy bị diệt vong.

Năm thứ 15, Quý Văn Tử[37] đi sứ sang Tấn.

Năm thứ 18, tháng 2, Văn Công chết. Văn Công có hai bà phi: lớn là Ai Khương người Tề, sinh con trai là Ác và Thị; thứ là Kính Doanh, được sủng ái, sinh con trai là Uy. Uy thờ Tương Trọng[38] làm thầy.  Tương Trọng muốn đưa Uy lên ngôi, Thúc trọng[39] không cho. Tương Trọng bèn xin với Tề Huệ Công, Huệ Công mới lên ngôi, muốn giữ Lỗ thân với mình, nên hứa giúp. Mùa đông tháng 10, Tương Trọng giết Ác cùng Thị và tôn Uy lên ngôi, tức Tuyên Công. Bà Ai Khương quay về Tề, khi đi ngang chợ, khóc nói: “Trời ôi! Tương Trọng làm điều bất đạo, giết đích lập thứ! Người ở chợ ai cũng rơi nước mắt, người Lỗ vì thế gọi bà là ‘Ai Khương[40]’. Công thất nước Lỗ từ đó trở nên hèn yếu, còn Tam Hoàn[41] cường thịnh.

Tuyên Công Uy năm thứ 12, Sở Trang Vương hùng mạnh nhất chư hầu, đánh Trịnh. Trịnh đầu hàng, rồi được trả lại nước.

Năm thứ 18, Tuyên Công chết, con là Hắc Quăng lên ngôi, tức Thành Công. Quý Văn Tử nói: “Người khiến nước ta giết đích lập thứ, làm mất lòng nước lớn chẳng ai còn trợ giúp, là Tương Trọng. Khi Tương Trọng lập Tuyên Công, Công tôn Quy Phụ được thân sủng. Tuyên Công muốn đuổi Tam Hoàn, nên Quy Phụ âm mưu với Tấn đánh Tam Hoàn. Đến khi Tuyên Công chết, Quy Phụ bị Quý Văn Tử oán, bèn trốn sang Tề[42].

Thành Công năm thứ 2 mùa xuân, Tề đánh Lỗ chiếm ấp Long. Mùa hạ, Thành Công cùng Khích Khắc nước Tấn đánh bại Tề Khoảnh Công ở đất An, Tề phải trả Lỗ những đất đai đã chiếm[43]. Năm thứ 4, Thành Công đến Tấn, Tấn Cảnh Công bất kính với Lỗ. Lỗ muốn phản Tấn theo Sở, có người can gián, bèn không làm[44]. Năm thứ 10, Thành Công đến Tấn. Tấn Cảnh Công vừa chết, Tấn bèn giữ Lỗ Thành Công ở lại đưa đám, Lỗ kỵ việc này, không chép lại. Năm thứ 15, Lỗ lần đầu tiên họp với Ngô Vương Thọ Mộng ở Chung ly.

Năm thứ 16, Tuyên báo với Tấn muốn diệt Quý Văn Tử. Văn Tử là người có nghĩa, nên Tấn không chấp thuận.

Năm thứ 18, Thành Công chết, con là Ngọ lên ngôi, tức Tương Công. Lúc ấy Tương Công mới 3 tuổi.

Tương Công nguyên niên, Tấn lập Điệu Công lên ngôi. Mùa đông năm trước đó, Loan Thư nước Tấn giết vua là Lệ Công. Năm thứ 4, Tương Công đến Tấn triều kiến.

Năm thứ 5, Quý Văn Tử chết. Trong nhà thê thiếp không ăn mặc lụa là, ngoài tàu ngựa không nuôi bằng thóc lúa, trong nhà không vàng ngọc, với sự trong sạch ấy ông làm Tướng quốc trải ba đời vua. Người quân tử nói: “Quý Văn Tử liêm khiết, trung thành.

Năm thứ 9, Lỗ cùng Tấn đánh Trịnh. Tấn Điệu Công làm lễ đội mão cho Tương Công ở Vệ, có Quý Võ Tử đi theo, giúp hoàn thành nghi lễ.

Năm thứ 11, Tam Hoàn chia binh đội nước Lỗ làm 3 quân.

Năm thứ 12, Tương Công đến chầu vua Tấn. Năm thứ 16, Tấn Bình Công lên ngôi. Năm thứ 21, Tương Công đến Tấn triều kiến Bình Công.

Năm thứ 22, Khổng Khâu ra đời.

Năm thứ 25, Thôi Trữ nước Tề giết vua là Trang Công, lập em là Cảnh Công.

Năm thứ 29, Diên lăng Quý Tử[45] nước Ngô đi sứ đến Lỗ, xem lễ nhạc nhà Châu và thấu tỏ ý nghĩa, được người Lỗ kính trọng.

Năm thứ 31, tháng 6, Tương Công chết. Tháng 9 năm ấy, Thái tử chết. Lỗ lập con trai bà Tề Quy là Chù làm vua, tức Chiêu Công.

Chiêu Công năm 19 tuổi tính tình vẫn trẻ con, Mục Thúc[46] không muốn tôn lên ngôi, nói: “Thái tử đã mất, nếu có em trai cùng mẹ thì đáng lập, không mới lập người nào lớn tuổi nhất. Nếu nhiều người cùng tuổi thì chọn ai hiền năng. Nếu ai cũng đáng lên ngôi thì bói rùa xin chỉ thị. Nay Chù vốn đã chẳng con đích, đang lúc cư tang tâm trí không âu sầu còn mang dáng vẻ vui mừng. Nếu quả sẽ lên ngôn, hẳn sẽ gây mối lo cho họ Quý. Quý Võ Tử không nghe, cuối cùng đưa Chù lên ngôi. Đến khi chôn cất Tương Công, Chiêu Công thay sô phục đến 3 lần. Người quân tử nói: Người này hẳn sẽ không sống được trọn đời.

Chiêu Công năm thứ 3, vua Lỗ đến Tấn triều kiến; mới đến sông Hà, Tấn Bình Công từ chối và cho đưa vua Lỗ về nước; Lỗ cho là bị sỉ nhục[47]. Năm thứ 4, Sở Linh Vương họp chư hầu ở Thân, Chiêu Công xưng bệnh không đến. Năm thứ 7, Quý Võ Tử chết. Năm thứ 8, Sở Linh Vương hoàn tất đài Chương hoa, cho triệu mời Chiêu Công[48]. Chiêu Công đến chúc mừng, Sở tặng Chiêu Công bảo khí; nhưng ngay sau đó tiếc, dùng kế lừa lấy lại[49]. Năm thứ 12, vua Lỗ sang Tấn chầu vua Tấn; đến sông Hà, Tấn Bình Công từ tạ và cho đưa về[50]. Năm thứ 13, Công tử Khí Tật nước Sở giết Linh Vương, thay làm vua. Năm thứ 15, Lỗ đến triều kiến Tấn, Tấn giữ vua Lỗ tham dự chôn cất Tấn Chiêu Công, Lỗ cho là bị sỉ nhục. Năm thứ 20, Tề Cảnh Công cùng Yến Tử đi săn ở biên cảnh, nhân dịp ghé đô ấp Lỗ tham khảo về lễ. Năm thứ 21, Lỗ sang chầu Tấn; đến sông Hà, Tấn từ tạ và cho đưa về.

Năm thứ 25 mùa xuân, có loài chim yểng đến Lỗ làm tổ[51]. Kỷ nói: “Có được nghe lời đồng dao thời Văn Công, Thành Công rằng: ‘Yểng đến làm tổ, vua ra Càn hầu; yểng vào phòng trong, vua ra ngoài đồng.’”

Họ Quý chọi gà với họ Hậu, họ Quý bôi giới tử[52] lên lông gà, còn họ Hậu gắn mũi đồng lên cựa. Quý Bình Tử[53] nổi giận xâm đoạt nhà họ Hậu, nên Hậu Chiêu cũng hận Bình Tử. Em họ Tang Chiêu  là Hội[54] đặt điều sàm báng họ Tang, náu ở nhà họ Quý, Tang Chiêu bắt nhốt người nhà họ Quý. Quý Bình Tử nổi giận, nhốt giữ lão thần nhà họ Tang. Họ Tang và họ Hậu bèn đem thưa với Chiêu Công. Tháng 9 ngày mậu tuất, Chiêu Công đánh họ Quý, tiến đến đô ấp họ Quý. Bình Tử leo lên đài xin: “Nhà vua tin lời gièm đòi giết thần mà không xét tội trạng cho thông, xin được đày đến bên sông Nghi.” Chiêu Công không thuận. Bình Tử xin chịu giam ở ấp Phí, cũng không thuận. Bình Tử lại xin đem 5 cỗ xe đi khỏi nước Lỗ, cũng không thuận. Tử gia Câu nói: “Nhà vua hãy nhận lời đi. Chính sự do họ Quý nắm đã lâu, bè đảng họ nhiều, hẳn sẽ hợp mưu với nhau.” Chiêu Công không nghe. Họ Hậu còn nói: “Nhất định phải giết.” Tôi thần nhà họ Thúc tôn là Lệ hỏi tôi đảng nhà mình rằng: “Còn họ Quý với mất họ Quý, bên nào ích lợi hơn?” Mọi người đáp: “Họ Quý mà mất, họ Thúc tôn cũng chẳng còn.” Lệ nói: “Đúng! Phải cứu họ Quý!” Thế rồi đánh bại quân của Chiêu Công. Mạnh Ý Tử được tin họ Thúc tôn chiến thắng, cũng giết Hậu Chiêu . Hậu Chiêu làm sứ giả cho Chiêu Công đến nhà họ Mạnh, nên bị họ bắt được. Ba nhà hợp nhau đánh Chiêu Công, Chiêu Công bèn chạy trốn. Ngày kỷ hợi, Chiêu Công đến Tề; Tề Cảnh Công nói: “Xin dành riêng một ngàn chiêu đãi nhà vua.” Tử gia nói: “Vứt bỏ cơ nghiệp Châu Công làm tôi nước Tề, sao được?” Chiêu Công mới thôi. Tử gia nói: “Tề Cảnh Công không đánh tin, không bằng đến Tấn càng sớm càng hay.” Chiêu Công không nghe. Thúc tôn Tử đến gặp Chiêu Công, rồi về gặp Quý Bình Tử, Bình Tử khấu đầu tạ lỗi[55]. Ban đầu họ muốn rước Chiêu Công về nước, nhưng nhà họ Mạnh tôn và Quý sau đó lại hối, nên thôi.

Năm thứ 26, mùa xuân, Tề đánh Lỗ, chiếm đất Vận và bố trí Chiêu Công ở đấy. Mùa hạ, Tề Cảnh Công muốn đưa Chiêu Công về nước, truyền lệnh cấm nhận quà biếu từ Lỗ. Thân Phong và Nhữ Giả hứa biếu tôi thần nước Tề là Cao Hột và Tử Tướng 5.000 dữu[56] thóc. Tử Tướng bèn nói với Tề Hầu rằng: “Quần thần không còn thờ được vua Lỗ, nên mới sinh việc quái lạ thế này: Tống Nguyên Công giúp Lỗ đến Tấn xin đưa vua Lỗ về nước, dọc đường đã chết. Thúc tôn Chiêu Tử[57] xin đưa vua về nước, chẳng bệnh tật gì cũng chết. Theo đó mà xét há chẳng biết trời đã bỏ Lỗ rồi ư? Ép Lỗ phải nhận vua là có tội với quỷ thần vậy. Nguyện nhà vua hãy chờ đấy. Tề Cảnh Công nghe lời.

Năm thứ 28, Chiêu Công đến Tấn, xin được đưa về nước. Quý Bình Tử vốn đã lập quan hệ riêng với Lục khanh nước Tấn, Lục khanh nhận quà cáp từ họ Quý, ngăn cản vua Tấn, vua Tấn bèn thôi, an bài Chiêu Công ở Càn hầu. Năm thứ 29, Chiêu Công về Vận. Tề Cảnh Công sai người đưa thư cho Chiêu Công, tự xưng là “Chủ quân[58]. Chiêu Công cảm thấy bị sỉ nhục, nổi giận rời Vận đến Càn hầu. Năm thứ 31, Tấn muốn đưa Chiêu Công về nước, bèn cho đòi Quý Bình Tử. Bình Tử mặc áo vải, đi chân không nhờ Lục khanh tạ tội. Lục khanh xin giúp Bình Tử rằng: “Tấn dù muốn đưa Chiêu Công về nước, lòng người cũng không thuận.” Tấn bèn thôi. Năm thứ 32, Chiêu Công chết ở Càn hầu. Người Lỗ cùng nhau lập em Chiêu CôngTống lên ngôi, tức Định Công.

Định Công lên ngôi, Triệu Giản Tử hỏi Sử Mặc rằng: “Họ Quý sắp mất chăng?”[59] Sử Mặc đáp: “Không mất. Quý Hữu có công lớn với Lỗ, được cắt phong ấp Phí làm Thượng khanh, đến đời Văn Tử, Võ Tử, cơ nghiệp lại càng ton hơn. Khi Lỗ Văn Công chết, Đông môn Toại giết đích lập thứ, vua Lỗ từ đó đã mất quyền nước. Chính sự nằm nơi họ Quý đến nay đã bốn đời vua. Vua không được dân biết đến, thì còn làm sao đoạt lại nước? Chính vì thế làm vua phải thận trọng với biểu khí và danh hiệu, chẳng thể giao phó cho người.”

Định Công năm thứ 5, Quý Bình Tử chết. Dương Hổ[60] vì oán riêng, bắt giam Quý Hoàn Tử[61], bắt phải ăn thề với mình rồi mới thả[62]. Năm thứ 7, Tề đánh Lỗ chiếm Vận, cấp Dương Hổ làm phong ấp để nắm quyền chính nước Lỗ[63]. Năm thứ 8, Dương Hổ muốn giết hết gia trưởng ba nhà Tam Hoàn và lập những người thân thiện với mình lên thay; Dương Hổ đưa Quý Hoàn Tử lên xe toan giết, Hoàn Tử phải lừa người đánh xe mới thoát thân[64]. Tam Hoàn cùng đánh Dương Hổ, Dương Hổ đến đóng ở Dương quan. Năm thứ 9, Lỗ đánh Dương Hổ, Dương Hổ trốn sang Tề, rồi chạy đến với họ Triệu nước Tấn.

Năm thứ 10, Định Công cùng Tề Cảnh Công họp ở Giáp cốc, Khổng Tử theo giúp về nghi thức[65]. Tề vốn muốn làm vua Lỗ bất ngờ, Khổng Tử leo lên thềm lấy lễ bắt bẻ, sai chém các nhạc công man di của Tề, Tề Hầu sợ, trả lại những đất đai đã chiếm của Tề tạ lỗi. Năm thứ 12, vua Lỗ sai Trọng Do phá hủy thành ốc ba nhà Tam Hoàn, thu đoạt giáp binh của họ. Nhưng họ Mạnh chẳng chịu phá thành, Lỗ đến đánh lại không hạ được, nên đành thôi. Quý Hoàn Tử nhận của biết từ Tề là ban nữ nhạc, Khổng Tử bỏ Lỗ mà đi[66].

Năm thứ 15, Định Công chết, con là Tướng lên ngôi, tức Ai Công.

Ai Công năm thứ 5, Tề Cảnh Công chết. Năm thứ 6, Điền Khất nước Tề giết vua là Nhụ Tử.

Năm thứ 7, Ngô Vương Phù Sai cường thịnh, đánh Tề, đến đất Tăng, đòi Lỗ cấp trăm đầu gia súc chuyên dùng cúng tế. Quý Khang Tử sai Tử Cống thuyết phục Ngô VươngThái tể Dĩ, dùng lễ khuất phục họ. Ngô Vương nói: “Thân thể ta xăm trổ đầy mực, chẳng đáng lấy lễ mà trách.” Bèn thôi.

Năm thứ 8, Ngô đánh Lỗ giúp Trâu, tiến quân đến dưới chân đô thành, ăn thề rồi rút đi. Tề đánh Lỗ, chiếm 3 ấp. Năm thứ 10, Lỗ đánh biên giới phía nam nước Tề. Năm thứ 11, Tề đánh Lỗ. Họ Quý dùng Nhiễm Hữu lập nên công trạng, tưởng nhớ đến Khổng Tử, Khổng Tử từ Vệ quay về Lỗ.

Năm thứ 14, Điền Thường nước Tề giết vua là Giản Công ở Từ châu. Khổng Tử xin đánh Điền Thường, Ai Công không nghe. Năm thứ 15, Lỗ sai Tử phục Cảnh , với Tử Cống làm phó,  đi sứ sang Tề, Tề trả lại cho Lỗ đất đai đã chiếm. Đấy là nhờ Điền Thường khi mới làm Tướng quốc, muốn kết tình thân hảo với chư hầu.

Năm thứ 16, Khổng Tử chết.

Năm thứ 22, Việt Vương Câu Tiễn diệt Ngô Vương Phù Sai.

Năm thứ 27 mùa xuân, Quý Khang Tử chết. Mùa hạ, Ai Công sợ Tam Hoàn, muốn nhờ chư hầu uy hiếp họ, Tam Hoàn cũng sợ Ai Công gây họa, nên giữa vua tôi có nhiều hiềm khích. Ai Công đến chơi Lăng phản, trên đường gặp Mạnh Võ , mới hỏi: “Xin hỏi ta đã sắp gặp cái chết chưa?” Đáp: “Không biết.” Ai Công vì thế muốn nhờ Việt đánh Tam Hoàn. Tháng 8, Ai Công đến nhà họ Hình, Tam Hoàn đánh Ai Công, Ai Công chạy sang rồi, rồi rời Vệ đến Trâu, rồi rời Trâu đến Việt. Quốc nhân nước Lỗ đón Ai Công về nước, cuối cùng chết ở nhà Hữu sơn. Con là Ninh lên ngôi, tức Điệu Công.

Vào đời Điệu Công, Tam Hoàn càng thêm hưng thịnh, Lỗ chỉ còn như nước nhỏ, hèn kém với ba nhà Tam Hoàn.

Năm thứ 13, Tam Tấn diệt Trí Bá, chia nhau chiếm hữu đất đai của họ Trí.

Năm thứ 37, Điệu Công chết, con là Gia lên ngôi, tức Nguyên Công. Nguyên Công ở ngôi 21 năm thì chết, con là Hiển lên thay, tức Mục Công. Mục Công ở ngôi 33 năm thì chết, con là Phấn lên thay, tức Cung Công. Cung Công ở ngôi 22 năm thì chết, con là Truân lên thay, tức Khang Công. Khanh Công ở ngôi 9 năm thì chết, con là Yển lên thay, tức Cảnh Công. Cảnh Công ở ngôi 29 năm thì chết, con là Thúc lên thay, tức Bình Công. Lúc bấy giờ, sáu nước đều xưng vương.

Bình Công năm thứ 12, Tần Huệ Vương chết. Năm thứ 22, Bình Công chết, con là Giả lên thay, tức Văn Công. Văn Công năm thứ 7, Sở Hoài Vương chết ở Tần. Năm thứ 23, Văn Công chết, con là Thù lên thay, tức Khoảnh Công.

Khoảnh Công năm thứ 2, Tần đánh hạ Dĩnh đô của Sở, Sở Khoảnh Vương dời đô về đông đến Trần. Năm thứ 19, Sở đánh Lỗ, chiếm Từ châu. Năm thứ 24, Sở Khảo Liệt Vương đánh diệt nước Lỗ. Khoảnh Công bỏ trốn, dời đến ở một ấp nhỏ nơi nước khác, trở thành dân thường, Lỗ thế là tuyệt tự. Khoảnh Công chết ở đất Kha.

Lỗ bắt đầu từ Châu Công truyền đến Khoảnh Công, gồm 34 đời.

Thái sử công nói: Ta nghe Khổng Tử thán: ‘Tột cùng thay, đạo nước Lỗ sa đà! Người miền giữa Thù, Tứ cứ phải miệng lưỡi thiệt hơn!’ Nhìn đến rắc rối thời Khánh Phụ, Thúc Nha, Mẫn Công, sao mà loạn thế? Rồi rắc rối Ẩn với Hoàn; Tương Trọng giết đích lập thứ; ba nhà hướng mặt phía bắc làm tôi nhưng tự thân đánh Chiêu Công, khiến Chiêu Công phải trốn. Đi đến đất ấy, ai cũng thủ lễ vái chào, nhưng hành động sao lại quá bạo tàn?

[1] Gọi là Châu Công vì bản thân ông được phong ở Châu, là nơi Châu Thái Vương lập nghiệp. Con cái Châu Công đến 8 người được phong làm chư hầu, quan trọng nhất trong đó có Lỗ, Châu, Hình. Thiên thế gia này chỉ theo dòng con trưởng của Châu Công.

[2] Theo Tiêu Châu, vì thái ấp của Châu Công Đán là Châu nguyên, nơi ông cố của ông là Châu Thái Công đóng đô (và cũng là nguồn gốc tên nhà Châu), nên được gọi là Châu Công. Theo Quốc ngữ, tước và thụy của ông là Châu Văn Công. Theo Sử ký 35, Châu Công là con thứ 4 của Văn Vương, sinh sau Quản Thúc.

[3] Đây là lễ tế, tế sinh (thường là trâu bò) bị giết tại nơi, máu được dùng thoa lên thần Xã (Xã thần).

[4] Võ Canh là thụy, Lộc Phụ là tên.

[5] Theo Kinh ThiTả truyện, Bá Cầm là vua đầu tiên của Lỗ, Takigawa cho rằng người trở thành Lỗ Công là Bá Cầm. Theo Quách Khắc Dục (郭克煜), truyền thuyết Châu Công được phong ở Lỗ lan truyền vào thời Chiến quốc. Tư mã Thiên có lẽ đã dựa trên các nguồn này.

[6] Nguyên văn “Vị khả dĩ thích ngã tiên vương”. Khổng An Quốc cho thích (戚) có nghĩa là “đến gần. Tức chưa thể dùng cái chết để về gần tiên vương.” Còn Trịnh Huyền giải thích rằng: “Hai ông muốn đến miếu Văn Vương chiêm bốc. Nên thích có nghĩa là lo lắng. Chưa thể làm tiên vương nhà ta lo lắng.”

[7] Một đàn cho Thái Vương, một đàn cho Vương Quý, và một đàn cho Văn Vương.

[8] Ngọc bích dẹt, hình tròn, có lỗ ở giữ, ngọc khuê, dạng như cái thẻ, trên nhọn dưới vuông. Theo Khổng An Quốc, “bích để lễ thần, khuê để lễ bề trên.”

[9] Ám chỉ nhà Tông miếu, nơi thờ cúng từ Châu Thái Vương trở xuống.

[10] Qua quẻ bói.

[11] Đoạn này luộm thuộm. Nguyên văn: “Bặc nhơn giai viết cát, phát thư thị chi, tín cát. Châu công hỉ, khai dược, nãi kiến thư ngộ cát.” Nếu ngắt câu như thông thường, thì sau khi bói, Châu Công mở sách đến hai lần. Hậu nhân giải thích có người cho rằng câu cuối vốn là chú thích. Ở đây xin dịch theo cách ngắt câu của Chavanne, vì như thế có lẽ hợp lý nhất.

[12] Câu chuyện này, nguồn của Tư mã Thiên có lẽ là Thượng thư, thiên Kim đằng, và ông thêm bớt một tí.

[13] Theo Lương Ngọc Thằng, Từ Phục Quan và Khuất Vạn Lý, Thành Vương chỉ còn trẻ, không thể bé đến “còn trong yếm tã”. Và nghi rằng câu ấy được người ta viết thêm vào đời Tây Hán.

[14] Vấn đề Châu Công có thực sự “lên ngôi” hay không vẫn còn được tranh cãi. Lương Ngọc Thằng (梁玉繩) trong Sử ký chí nghi (史記志疑) cho rằng Châu Công chưa bao giờ lên ngôi vua trong khi một số khác như Từ Phục Quan, Cố Hiệt Cương cho rằng ông đã lên ngôi. Gần đây, Edward Shaghnessy cho rằng Châu Công chưa bao giờ được thừa nhận là vương khi ông còn sống. (“The Duke of Zhou’s Retirement in the East and the

Beginnings of the Minister-Monarch Debate in Chinese Political Philosophy,” Early China 18 (1993): 41-72)

[15] Có chép lại trong thiên Đại cáo, phần Châu thư, sách Thượng thư.

[16] Quỹ hòa (Tặng lúa), một thiên của Thượng thư nhưng đã thất lạc.

[17] Gia hòa (lúa tốt), cũng không còn tồn tại.

[18] Si hào (鴟鴞 – Cú vọ), còn được chép lại trong Thi kinh – Quốc phong – Bân phong. Bài thơ mô tả tâm sự của một con chim trút hết sức lực ra xây cho xong tổ trước khi mưa gió đến.

[19] Tức từ Hạo đi đến Phong. Văn Vương dựng đô ở Phong, Võ Vương dựng đô ở Hạo, cách nhau chỉ con sông nhỏ, nên có khi còn được gọi chung là Phong hạo. Phong là nơi có miếu đền Văn Vương . Hạo cách Phong chỉ có con sông, nên cả hai nơi được gọi chung là Phong hạo. Phong là ấp do Văn Vương dựng lên, sau này Võ Vương dời đi xây kinh đô mới ở Hạo, bèn dựng miếu Văn Vương ở Phong. Nếu phải đi  bộ tức làm nghi thức lễ tế gì đó, theo Mã Dung, Thành Vương đến miếu Văn Vương trình báo việc dựng kinh đô mới ở Lạc dương.

[20] Phủ y: cái trướng (màn) thêu hình cặp búa biểu thị uy quyền.

[21] Theo Lễ ký, Châu Công thiết triều, ngồi ở nhà Minh đường. Lưng tựa trướng phủ y, đứng hướng mặt phía nam. Trịnh Huyền giải thích: Châu Công thay vương ngồi trên ngai, dùng lễ nghi nhà Minh đường để xem chầu chư hầu. Không thiết triều ở Tông miếu để tránh phạm quyền vua.

[22] Sự kiện Châu Công trốn đến Sở không có trong kinh điển. Theo Tiêu Châu, vì vào đời Tần sách vỡ bị đốt, đến đời Hán người ta tạo dựng lại thời kỳ này nhưng không có bản gốc. dẫn đến nhiều lầm lẫn.

[23] Theo Tác ẩn, con trưởng của Châu Công đi cai trị phong quốc của ông là Lỗ, con thứ ở lại kinh đô phù tá vương thất, thay làm Châu Công, ngoài ra, 6 người được phong ở nước nhỏ, gồm Phàm, Tương, Hình, Mao, Tạc, và Tế.

[24] Theo Vương Túc, sát ngoài thành là giao, sát ngoài giaotoại.

[25] Luật lập con trưởng.

[26] Theo tuổi là con trưởng, nhưng là con vợ bé, nên không phải con đích.

[27] Theo Xuân thu, Ẩn Công đến Đường ‘bắn cá’.

[28] Ngự nhân: người đánh xe.

[29] Khánh Phụ trong nhà vai thứ 2, hàng chữ trọng, nên còn có thụy là Cung Trọng. Thúc Nha tên chỉ là Nha, Thúc là vai thứ 3, còn có thụy là Hi Thúc. Quý Hữu vai út, tên chỉ là Hữu, thụy là Thành Quý.

[30] Truy lại phả hệ nước Lỗ, điều này có vẻ đúng. Dùng (-) là quan hệ cha con, (=) là quan hệ anh em, Lỗ Công Bá Cầm – Khảo Công = Dương Công – U Công = Ngụy Công – Lệ Công = Hiến Công – Thận Công = Võ Công – Ý Công = Hiếu Công – Huệ Công – Ẩn Công = Hoàn Công – Trang Công. Chỉ một lần duy nhất lệ này bị dứt đoạn là từ Huệ Công đến Ẩn Công. Có thể Huệ Công không có em trai, nên truyền ngôi cho con. Từ Trang Công trở đi, lệ này mới dứt.

[31] Đoạn này cha con Tư mã Thiên theo Xuân thu Cốc Dương truyện. Theo Tả truyện, Thúc Nha chỉ trả lời Trang Công: “Khánh Phụ tài năng.”

[32] Tức nhà bên mẹ,

[33] Đúng ta là thụy.

[34] Cũng là họ Trọng tôn.

[35] Nguyên văn: “dĩ Vấn dương Phí phong Quý Hữu”. Giả Quỳ cho rằng Vấn dương và Phí là hai ấp. Tuy nhiên sử sách khi nhắc đến họ Quý chỉ nhắc Phí, không nói đến Vấn dương, Vấn dương còn có nghĩa phía bắc sông Vấn. Phí trong lịch sử nằm ở phía bắc sông Vấn, nên dịch theo ý ấy.

[36] Thúc tôn Đắc Thần (Trang Thúc) là người chỉ huy quân Lỗ, đặt tên cho con là Thúc tôn Kiều Như (Tuyên ).

[37] Quý tôn Hành Phụ, cháu nội Quý Hữu.

[38] Vốn là Công tử Toại, em Hi Công, con Trang Công, được phong ở Đông môn, và làm Chính khanh nước Lỗ nên còn gọi là Đông môn Tương Trọng.

[39] Thúc trọng Huệ Bành Sinh, con Võ Trọng Hưu. Hi Thúc Nha chết, người con trưởng là Tư lập ra họ Thúc tôn, người con thứ là Hưu lập ra họ Thúc trọng. Thúc trọng Bành Sinh là sư phó của Công tử Ác, đối lập Đông môn Tương TrọngCông tử Uy. Vì thế

[40] Ai nghĩa là bi ai.

[41] Ba nhà Đại phu con cháu Lỗ Hoàn Công: Mạnh thị hoặc Mạnh tôn thị (con cháu Khánh Phụ), Thúc thị hoặc Thúc tôn thị (con cháu Thúc Nha), và Quý thị hoặc Quý tôn thị (con cháu Quý Hữu).

[42] Xuân thu diễn tả phần này rõ ràng hơn. Công tôn Quy Phụ là con trai của Tương Trọng, nên sau khi Tương Trọng đưa Tuyên Công lên ngôi, Quy Phụ nhờ đó được quý sủng. Khi Tuyên Công chết, Quy Phụ đang đi sứ sang Tấn, quay về đến đất Sanh, được tin bèn trốn sang Tề. Người em là Anh Tề nối tự Tương Trọng, lập nên họ Trọng ở Lỗ. Con trai Quy Phụ sau quay về Lỗ lập thành họ Tử gia (Tử Gia là tự của Quy Phụ), tức Tử gia Văn Tích.

[43] Tề hiếp Lỗ, Vệ; Lỗ, Vệ thông qua Khích Khắc (Khích Hiến Tử) vốn sẳn hiềm khích với Tề cầu cứu Tấn. Tấn sai Khích Khắc cầm quân, cùng, Lỗ, Vệ đánh Tề. Xuân thu chép: “Thành Công năm thứ 2, tháng 6, ngày quý dậu, Quý tôn Hàng Phủ, Tang tôn Hứa, Thúc tôn Kiều Như, Công tôn Anh Tề dẫn quân hợp với Khích Khắc nước Tấn, Tôn Lương Phu nước Vệ, Công tử Thủ nước Tào. Bắt kịp Tề Hầu, giao chiến ở đất An. Quân Tề thua bại.” Không hề nhắc đến Lỗ Thành Công. Qua đó có thể đoán rằng những người này mỗi người chỉ huy cánh quân riêng họp với quân Tấn.

[44] Tả truyện: Thành Công đến chầu Tấn Cảnh Công, Cảnh Công có vẻ bất kính. Khi quay về, Thành Công muốn phản Tấn theo Sở, nhưng Quý Văn Tử can.

[45] Quý Trát.

[46] Thúc tôn Mục Tử Báo, em Thúc tôn Tuyên Kiều Như.

[47] Theo Tả truyện, sự kiện này xảy ra vào năm Chiêu Công thứ 2.

[48] Theo Tả truyện, sự kiện này xảy ra vào năm Chiêu Công thứ 7.

[49] Tả truyện: Sở tặng vua Lỗ cây cung đại khuất. Tặng xong lại tiếc. Vĩ Khải Cường biết, đến gặp vua Lỗ, chúc mừng nói: ”Cây cung quý ấy, Tề, Tấn, Việt đều muốn mà không được.” Lỗ sợ họa chiến tranh, bèn trả.

[50] Sử ký lầm, lúc này Tấn Bình Công đã chết, vua Tấn là Tấn Chiêu Công đã lên ngôi từ năm trước.

[51] Nguyên văn: Cù dục (鸜鵒—Myna, starling, thuộc họ chim sáo) là loài chim miền nam, hiếm ở miền bắc TQ.

[52] Giới tử (芥子):mustard, mù tạt. Tả truyện dùng chữ giới [介], nhiều người cho rằng đây là một loại “áo giáp” cho gà.

[53] Quý Bình Tử Ý Như, con Quý Điệu Tử Hột, cháu nội Quý Võ Tử Túc.

[54] Tang Chiêu Tứ và Tang Khoảnh Hội đều là cháu nội Tang Tuyên Thúc Hứa. Tả truyện: Tang Chiêu sang Tấn, Tang Hội sang báo về việc nhà, úp mở không nói thẳng, Chiêu sợ ở nhà có việc, quay về, hỏi ra không có việc gì, nổi giận muốn giết Tang Hội. Hội chạy đến nhà họ Hậu, làm việc cho họ Hậu. Tang Hộ có việc vì họ Hậu đến nhà họ Quý, họ Tang cho người phục kích nơi cổng nhà họ Quý xông ra bắt Tang Hội, Quý Bình Tử nổi giận cho bắt đám ấy, vì thế nên giữa họ Quý và họ Tang sinh chuyện.

[55] Chính trị nước Lỗ rắc rối vì không riêng các gia tộc quyền thế lấn vua, và bề tôi các gia tộc quyền thế có người còn lấn cả chủ. Trong khi Tư mã Lệ nhà Thúc tôn giúp họ Quý đánh bại Lỗ Chiêu Công, bản thân gia trưởng nhà Thúc tôn là Chiêu Tử Xúc lại muốn trợ giúp Chiêu Công. Nên sau khi Chiêu Công bỏ nước chạy, Thúc tôn Xúc làm trung gian giữa Chiêu Công và Quý Bình Tử.

[56] 1 dữu = 16 đấu.

[57] Thúc tôn Chiêu Tử Xúc, con Thúc tôn Mục Tử Báo.

[58] Theo Phục Kiền giải thích, Đại phu xưng là ‘Chủ’. Vì vua Tề đặt Chiêu Công ngang hàng với Đại phu của mình, nên xưng là ‘Chủ quân’.

[59] Vì Lỗ lại có vua, hỏi xem họ Quý có bị trả thù.

[60] Còn có tên Dương Hóa, về huyết tộc là con cháu nhà Mạnh tôn, nhưng coi việc cho nhà họ Quý, qua đó nắm quyền nước Lỗ.

[61] Quý Hoàn Tử Tư, con trai Quý Bình Tử Ý Như.

[62] Tả truyện: Quý Bình Tử chết, Dương Hổ muốn lấy ngọc liệm theo. Trọng lương Hoài, cũng là gia thần họ Quý, không cho, nói: “Ngọc chỉ có vua đeo, khi nước không vua Bình Tử mới tạm thay vua đeo, nay nước lại có vua, thì phải thay ngọc khác.” Dương Hổ muốn đuổi Trọng lương Hoài, nói với Công sơn Bất Nữu, Bất Nữu không cho. Sau đó Quý Hoàn Tử đến thăm Đông dã, Trọng lương Hoài có ý bất kính, Công sơn Bất Nữu xui Dương Hổ đuổi đi. Theo đó, oán riêng của Dương Hổ là với Trọng lương Hoài, không phải Quý Hoàn Tử. Như vậy Dương Hổ bắt Quý Hoàn Tử ăn thề chỉ để cam chắc việc đánh đuổi Trọng lương Hoài sẽ không sinh hậu quả tai hại cho chính mình.

[63] Tả truyện: Tề trả Lỗ đất Vận và Dương quan. Dương Hổ tự lấy cai trị.

[64] Tả truyện: Quý Ngụ, Công sừ Cực, Công sơn Bất Nữu bất mãn với Quý Hoàn Tử, Thúc tôn Triếp bất mãn với họ Thúc tôn, Thúc trọng Chí bất mãn với Lỗ đều nương theo Dương Hổ, muốn giết gia trưởng ba nhà Tam Hoàn, để Quý Ngụ thay Hoàn Tử, Triếp nối họ Thúc tôn, Dương Hổ nối họ Mạnh tôn. Tháng 10, ngày nhâm thìn, nhân dịp lễ tế tổ tiên nước Lỗ, Dương Hổ đưa Quý Hoàn Tử lên xe đến Bồ phố cúng tổ tiên họ Quý rồi giết luôn. Trước đấy Dương Hổ cho thông báo có chiến xa ra đường vào ngày quý tị, Thành Tể Công liễm Xử Phụ (gia thần họ Mạnh) hỏi gia trưởng họ Mạnh: “Họ Quý báo trước về chiến xa, vì sao?” Mạnh tôn trả lời không biết. Xử Phụ nói sắp có loạn, phải phòng bị, nên ra hẹn đến ngày nhâm thìn thì chuẩn bị binh đội. Dương Hổ đi trước, Lâm Sở đánh xe cho Hoàn Tử theo sau, đám ngu nhân cầm qua thuẫn đi kèm hai bên, Dương Việt chốt hậu. Sắp đến Bồ phố, Hoàn Tử thúc Lâm Sở phóng xe đến nhà họ Mạnh. Dương Việt bắn theo mà không trúng. Hoàn Tử thoát vào nhà họ Mạnh, từ trong cổng có người bắn ra giết Dương Việt. Dương Hổ ép Lỗ Định Công và Thúc tôn Võ Thúc (tên Châu Cừu) đánh họ Mạnh. Công liễm Xử Phụ dẫn người ấp Thành đến cứu, đánh bại Dương Hổ.

[65] Nguyên văn: “Khổng Tử hành tương sự.” Nhiều người cho câu này có nghĩa: Khổng Tử nắm việc Tướng quốc. Sau khi Dương Hổ chết, Khổng Tử trở thành gia thần họ Quý. Khổng Tử theo giúp vua Lỗ trong cương vị đó.

[66] Nho gia đời sau đa số tin rằng vì Quý Hoàn Tử mê nữ nhạc, không nghe chính sự, Khổng Tử mới bỏ đi. Sự thực không đơn giản như vậy. Lúc này Khổng Tử là gia thần họ Quý, học trò là Trọng Do cũng là gia thần họ Quý làm đến chức Tể, Khổng Tử đề xướng chính danh, muốn tôn vua Lỗ, truất Tam Hoàn, nên thông qua Trọng Do ra chính sách phá bỏ thành trì căn cứ của họ. Thúc tôn Võ Thúc phá bỏ tường thành ấp Hậu. Họ Quý cũng toan phá bỏ tường thành ấp Phí, nhưng Công sơn Bất Nữu, Thúc tôn Triếp, và Phí Tể dẫn dân Phí đánh đô thành nước Lỗ. Khổng Tử lúc ấy làm Tư khấu sai người đánh bại họ, nên tường thành ấp Phí bị phá dỡ. Công liễm Xử Phụ không chịu phá bỏ tường thành ấp Thành của họ Mạnh, quân Lỗ đến đánh lại không thắng. Gió lại trở chiều, các thế tộc muốn thêm tư quyền, chính sách phá sản, nên Khổng Tử phải rời khỏi Lỗ.

Sử ký, Quyển 32 — Tề Thái Công thế gia

Lời giới thiệu từ người dịch

 

 


Tề Thái Công thế gia, Sử ký quyển 32


jiang2btai2bgong

Thái Công Vọng câu cá

Thái Công Vọng Lữ Thượng[1], là người từ vùng duyên hải miền đông[2]. Tổ tiên ông từng làm Tứ Nhạc, giúp Vũ bình thủy thổ rất có công.  Vào dịp Hạ nối ngôi Ngu, tổ tiên ông được phong ở đất Lữ[3], còn có người được phong ở đất Thân[4], được ban Khương tính[5].  Vào đời Hạ và Thương, Thân và Lữ sinh sôi lắm con cháu chi thứ, nhiều người trở thành thường dân, Thượng là hậu duệ của họ. Dòng gốc của ông họ Khương, vì lấy đất phong làm chi họ, nên còn được gọi là Lữ Thượng[6].

Lữ Thượng từng rơi vào cảnh cùng khốn[7], tuổi cũng đã cao[8], mượn việc câu cá để diện kiến Châu Tây . Tây sắp đi săn, xem bói, được quẻ “Bắt được phi long, phi ly[9], phi hổ, phi bi[10], tìm được hàng phụ bật cho Bá Vương. Thế rồi Châu Tây lên đường đi săn, cuối cùng gặp Thái Công nơi bờ bắc sông Vị, chuyện trò với ông ta rồi cả mừng, nói: “Tiên quân Thái Công[11] nhà ta từng nói: ‘Nếu được thánh nhân đến Châu, Châu sẽ hưng.’ Ông có phải chính là người ấy? Thái Công nhà ta mong đợi ông đã lâu lắm! Nên gọi ông là “Thái Công Vọng”, chở theo cùng về, tôn làm thầy.

Còn có thuyết nói, Thái Công là người uyên bác, từng thờ Trụ. Trụ vô đạo, nên ông rời bỏ Trụ. Đi du thuyết khắp chư hầu, chẳng gặp vị vua nào vừa ý, cuối cùng đến tây thổ theo Châu Tây . Thuyết khác lại nói: Lữ Thượng là xử sĩ, ở ẩn bên bờ biển. Khi Châu Tây bị bắt giữ ở Dũ lý, Tán Nghi Sinh và Hoành Yêu vốn biết tiếng nên cho mời Lữ Thượng. Lữ Thượng cũng nói: “Ta nghe Tây hiền năng, lại biết phụng dưỡng người cao tuổi, thích đáng để theo.” Để giúp Tây , ba người tìm gái đẹp vật lạ hiến cho Trụ để chuộc Tây về. Tây nhờ đó mới được thoát về nước. Các câu chuyện kể lại căn nguyên Lữ Thượng đến với nhà Châu thế nào tuy khác nhau, nhưng cùng điểm cốt yếu: ông là bậc thầy chỉ dạy Văn Vương và Võ Vương.

Châu Tây Xương thoát được khỏi Dũ lý trở về, trù mưu với Lữ Thượng, tạo tu công đức để lật đổ quyền chính nhà Thương; Lữ Thượng đa phần lo về binh cơ và hiến nhiều kế lạ, nên hậu thế khi nói đến binh cơ cũng như quyền chước ngầm của Châu đều quy cho Thái Công đề ra. Nền chính trị của Châu Tây thế rồi bình ổn. Đến khi Tây xử đoán tranh tụng giữa hai nước Ngu và Nhuế, được thì nhân xưng tụng là đã được trời trao mệnh làm Văn Vương. Châu sau đó chinh phạt các nước Sùng, Mật tu[12], Khuyển di, và xây cất ấp Phong rất đồ sộ. Thiên hạ có ba phần, đến hai đã theo Châu. Những sự kiện ấy phần nhiều nhờ vào mưu kế của Thái Công.

Văn Vương mất, Võ Vương tức vị. Năm thứ 9, muốn tu bồi cơ nghiệp Văn Vương, Võ Vương bèn đông phạt để nghiệm thử xem chư hầu đã chịu tụ họp hay chưa. Khi quân đội lên đường, Sư Thượng phụ[13] tay trái nắm hoàng việt, tay phải cầm bạch mao truyền rằng: “Thương hủy, Thương hủy[14]; tổng đốc quân binh, giao ngươi tàu thuyền, ai trễ sẽ chém! Sau đó tiến đến bến Mạnh tân. Chư hầu lỗi hẹn có đến 800 nước, nhưng số chư hầu còn lại ai cũng nói: “Trụ đánh được. Nhưng Võ Vương nói: “Chưa được. Và lui quân. Tại Mạnh tân, Võ Vương cùng Thái Công lập lời Thái thệ[15].

Được hai năm, Trụ giết vương tử Tỷ Can, bỏ tù Cơ Tử. Võ Vương muốn đánh Trụ, trước hết bói rùa để hay tốt xấu, được quẻ không tốt là ‘phong vũ bạo chí’. Mọi người ai cũng sợ hãi, riêng Thái Công lại càng ráng thuyết phục Võ Vương xuất quân, Võ Vương rồi bèn lên đường. Năm thứ 11[16], tháng giêng ngày giáp tí, Võ Vương tuyên cáo lời thề ở Mục dã, rồi đánh Thương Trụ. Quân của Trụ thua vỡ. Trụ quay đầu chạy, trốn lên Lộc đài, Võ Vương đuổi theo chém Trụ. Hôm sau, Võ Vương đứng làm lễ nơi đền [17], thêm có mấy người em bưng nước sạch[18], Vệ Khang Thúc Phong trải chiếu mầu, Sư Thượng phụ dắt tế sinh[19], Sử Dật ôm sách khấn, tuyên báo với quỷ thần tội ác của Trụ đã được trừng trị. Sau đó chia tiền ở Lộc đài, phát thóc ở Cự kiều để cứu dân nghèo. Võ Vương còn truy phong mộ Tỷ Can, thả Cơ Tử khỏi tù; chuyển dời 9 đỉnh, tu chỉnh triều đình nhà Châu, cùng thiên hạ chuyển sang thời đại mới. Những việc này có Sư Thượng phụ góp bàn rất nhiều.

Sau khi Võ Vương nhờ bình định nhà Thương làm vương của cả thiên hạ, phong Sư Thượng phụ tại Doanh khâu[20], đất Tề. Lữ Thượng lên đường đến phương đông nhậm quốc, thong thả vừa đi vừa nghỉ. Có người ở quán trọ nói: “Tôi nghe nói thời cơ khó được mà dễ mất. Ông khách ngủ rất yên giấc, chắc sẽ chẳng đến nước kịp. Thái Công nghe thấy, đang đêm liền khoác áo mà đi, rạng sáng thì đến nước. Lai Hầu kéo quân đến giành, tranh Doanh khâu. Doanh khâu giáp biên với Lai. Người Lai là tộc Di, vì vừa có loạn vua Trụ mà nhà Châu lại chỉ mới lên, chưa vỗ yên nơi viễn phương, nên họ đến tranh đất với Thái Công.

Thái Công đến phong quốc, tu chỉnh chế độ, nương theo phong tục bản xứ, chiết giản lễ nghi, mở mang thông thương buôn bán, thu hoạch lợi nhuận từ nguồn cá và muối, dân chúng vùng ấy nhiều người theo Tề, Tề thế là trở thành nước lớn. Vào khi Châu Thành Vương còn bé, Quản, Thái nổi loạn, người Hoài di[21] phản Châu, Thành Vương bèn phái Thiệu Khang Công đến truyền lệnh cho Thái Công rằng: “Phía đông đến biển, phía tây đến sông Hà, phía nam đến Mục lăng, phía bắc đến Vô đệ, gồm năm Hầu chín , ông được tự quyền phạt tội[22].” Tề từ đó được quyền chinh phạt, làm nước lớn. Đóng đô ở Doanh khâu.

Thái Công chết độ khi đã hơn trăm tuổi[23], con là Đinh Công Lữ Cấp lên ngôi. Đinh Công chết, con là Ất Công Đắc lên ngôi. Ất Công chết, con là Quý Công Từ Mẫu[24] lên ngôi. Quý Công chết, con là Ai Công Bất Thần lên ngôi.

Vào đời Ai Công, bị Kỷ Hầu gièm pha với nhà Châu, vua Châu luộc Ai Công[25], và lập em Ai CôngTĩnh lên ngôi, tức Hồ Công[26]. Hồ Công dời đô đến Bạc cô[27], nhằm vào đời Châu Di Vương.

Em cùng mẹ của Ai CôngSơn oán Hồ Công, bèn cùng bè đảng thống lĩnh người Doanh khâu đánh úp giết chết Hồ Công[28] rồi tự lên ngôi, tức Hiến Công[29]. Hiến Công năm thứ nhất, cho trục xuất hết con cái của Hồ Công, nhân đấy dời đô khỏi Bạc cô, cai trị từ Lâm truy.

Năm thứ 9, Hiến Công chết, con là Công Thọ lên ngôi. Võ Công năm thứ 9, Châu Lệ Vương chạy khỏi kinh đô, lưu vong ở đất Trệ. Năm thứ 10, vương thất có loạn, đại thần nắm triều chính, gọi là Cộng hòa[30]. Năm thứ 24, Châu Tuyên Vương lên ngôi.

Năm thứ 26, Võ Công chết, con là Lệ Công[31] Vô Kỵ lên ngôi. Lệ Công bạo ngược, con của cố Hồ Công trở về Tề, được người Tề muốn tôn làm vua, bèn cùng nhau giết Lệ Công. Nhưng người con của Hồ Công cũng chết trận. Người Tề bèn lập con của Lệ CôngXích lên ngôi, tức Văn Công; và Văn Công cho truy giết đám người đã giết Lệ Công gồm 70 mạng.

Văn Công ở ngôi được 20 năm thì chết, con là Thành Công[32] Thoát lên ngôi. Thành Công được 9 năm thì chết, con là Trang Công[33] Cấu lên ngôi.

Trang Công năm thứ 24, Khuyển Nhung giết U Vương, Châu dời đô đến đất Lạc. Tần bắt đầu được liệt vào hàng chư hầu. Năm thứ 56, Tấn giết vua là Chiêu Hầu.

Năm thứ 64, Trang Công chết, con là Hi Công[34] Lộc Phủ lên ngôi.

Hi Công năm thứ 9, Lỗ Ẩn Công lên ngôi. Năm thứ 19, Lỗ Hoàn Công giết anh là Ẩn Công và tự lập làm vua.

Năm thứ 25, Bắc Nhung đánh Tề. Trịnh phái Thái tử Hốt đến cứu Tề, Tề muốn gả con gái cho ông ta làm vợ. Hốt nói: “Trịnh nhỏ Tề lớn, chẳng cùng một hàng với ta. Bèn từ chối.

Năm thứ 32, em cùng mẹ của Hi Công là Di Trọng Niên chết. Con người ấy là Công tôn Vô Tri được Hi Công yêu thương, truyền lệnh cho được cung dưỡng, ăn mặc vượt trật, ngang hàng với Thái tử.

Năm thứ 33, Hi Công chết, Thái tử Chư Nhi lên ngôi, tức Tương Công[35].

Tương Công năm thứ nhất, vì khi còn là Thái tử, Tương Công từng có chuyện tranh chấp với Vô Tri. Đến khi lên ngôi, bèn truất phục trật của Vô Tri, nên bị Vô Tri oán.

Năm thứ 4, Lỗ Hoàn Công cùng Phu nhân đến Tề. Tề Tương Công vốn từng tư thông với Lỗ Phu nhân. Mà Lỗ Phu nhân lại là em gái của Tương Công[36], từ thời Hi Công đã được gả cho Lỗ Hoàn Công làm vợ, nhân khi Hoàn Công đến Tề, lại cùng Tương Công tư thông. Lỗ Hoàn Công hay biết, nổi giận với Phu nhân, Phu nhân báo lại với Tề Tương Công. Tề Tương Công thết rượu vua Lỗ, chuốc uống cho say, rồi sai lực sĩ Bành Sinh xốc nách đưa vua Lỗ lên xe quay về, nhân dịp xiết chết Lỗ Hoàn Công. Hoàn Công đến khi được dìu xuống xe thì đã qua đời, Lỗ trách tội Tề. Tề bèn giết Bành Sinh để tạ lỗi với Lỗ.

Năm thứ 8, Tề đánh Kỷ, Kỷ dời đô ấp, bỏ nơi cũ[37].

Năm thứ 12, trước đấy, Tương Công vốn phái Liên Xưng và Quản Chí Phụ đi đồn trú ở Quỳ khâu, hẹn đến mùa dưa chín[38] thì được thay thế, mùa tới nữa thì quay lại. Đến đóng ở đấy một năm, rốt cuộc đã quá mùa dưa mà Tương Công không cho người đến thay.  Có người giúp họ xin Tương Công điều người khác đến thay, Tương Công không nghe. Hai người vì thế tức giận, nên nương vào Công tôn Vô Tri mưu đồ dấy loạn. Liên Xưng có người em gái họ được Tương Công cho nhập cung, nhưng không được sủng ái, Xưng bèn sai cô ta dò thám Tương Công giúp mình và hứa: “Khi nào đại sự thành công sẽ lập làm Phu nhân của Vô Tri. Mùa đông tháng 12, Tương Công đến chơi Cô phần, rồi đi săn tại Bái khâu[39]. Gặp con heo rừng, người hầu la lên: “Bành Sinh! Tương Công nổi giận toan bắn, con heo rừng chồm lên ré. Tương Công giật nảy mình, rơi khỏi xe, bị thương ở chân, rơi mất chiếc giầy. Đến khi quay về trị tội, đánh người trông nom giầy dép tên Phất 300 roi. Khi Tương Công vẫn còn ở trong cung, bọn Vô Tri, Liên Xưng, Quản Chí Phụ được tin Tương Công bị thương, bèn dẫn thuộc hạ sắp đánh úp cung điện. Trên đường gặp Phất, Phất nói: “Khoan hãy vào ngay. Nếu vào ngay sẽ làm cả cung điện kinh động. Cung điện mà kinh động thì sẽ chẳng dễ mà vào. Vô Tri chưa tin, Phất bèn vạch áo cho xem vết thương, lúc ấy mới tin. Họ bèn đợi ở bên ngoài cung, sai Phất vào trước. Phất vào, liền giấu Tương Công nơi khoan cửa ngách. Lâu sau, bọn Vô Tri đợi lâu bồn chồn, bèn kéo vào cung. Phất cùng các sủng thần nội cung của Tương Công đánh bọn Vô Tri, nhưng không thắng, bị giết cả. Vô Tri vào cung, lùng tìm Tương Công mà không ra. Có người nhìn thấy dáng chân người ở khoan cửa ngách, mở ra khám xét, thì lòi ra Tương Công, bèn giết chết, và Vô Tri tự lập làm vua Tề.

Hoàn Công năm thứ nhất mùa xuân, Tề Quân Vô Tri đến chơi Ung lâm[40]. Có người ở Ung lâm từng có hiềm oán với Vô Tri, nhân dịp Vô Tri đến đấy, bèn tập kích giết Vô Tri, và thông cáo với các Đại phu nước Tề rằng: “Vô Tri giết Tương Công tự lập làm vua, thần đã cẩn mệnh giết hắn. Các Đại phu hãy chọn Công tử nào đáng lập đưa lên ngôi, thần xin tuân mệnh.

Trước đấy, Tương Công chuốc rượu giết Lỗ Hoàn Công, tư thông với Phu nhân nước Lỗ, chém giết một số không đồng lõa với mình, gian dâm với vợ họ, nhiều lần lừa gạt đại thần, vì thế mấy người em sợ họa dấy thân. Người em kế của Tương Công là Củ trốn sang Lỗ, vì mẹ Củ người Lỗ, có Quản Trọng, Thiệu Hốt phù tá. Người em kế nữa là Tiểu Bạch chạy đến Cử, có Bảo Thúc phù tá. Mẹ của Tiểu Bạch mà con gái nước Vệ, được Hi Công sủng ái. Tiểu Bạch từ trẻ thân thiện với Đại phu Cao Hề[41]. Đến khi người Ung lâm giết Vô Tri, các Đại phu nghị bàn lập vua mới, Cao và Quốc từ trước đã ngầm cho triệu mời Tiểu Bạch ở Cử. Lỗ được tin Vô Tri đã chết, cũng cất quân đưa Công tử Củ về nước, và phái Quản Trọng dẫn riêng một cánh quân chặn đường về từ Cử, bắn Tiểu Bạch trúng vào khóa thắt lưng. Tiểu Bạch vờ chết, Quản Trọng phái người phi báo với Lỗ. Lỗ thong thả đưa Củ về nước, mất 6 ngày mới đến Tề, thì Tiểu Bạch đã về đến kinh đô, được Cao Hề tôn lên ngôi, tức Hoàn Công[42].

supplemental_advisers_cropped_guanzhong

Quản Trọng Di Ngô

Hoàn Công sau khi bị tên bắn vào khóa thắt lưng, đã vờ chết để lừa Quản Trọng, ngồi trong xe kín mui[43] phóng về nước, nhờ được Cao, Quốc làm nội ứng, nên đến trước được lập lên ngôi, rồi liền điều quân chống Lỗ. Mùa thu, giao chiến với Lỗ tại Kiền thì, quân Lỗ thua chạy, quân Tề chặn đường rút của quân Lỗ. Tề gởi thư cho Lỗ lời rằng: “Tử Củ là anh em máu mủ, không nỡ tự tay giết, xin Lỗ hay tự giết đi. Còn Thiệu Hốt và Quản Trọng là kẻ thù, xin được chuyển giao để băm ra cho thỏa lòng căm. Bằng không, sẽ đánh Lỗ.” Người Lỗ lo sợ, bèn giết Tử Củ tại Sanh độc. Thiệu Hốt tự sát, còn Quản Trọng xin làm tù nhân[44]. Hoàn Công khi mới lên ngôi và rồi cất quân đánh Lỗ, trong bụng vốn muốn giết Quản Trọng. Bảo Thúc Nha nói: “Thần may mắn được theo nhà vua, nhà vua thế rồi đã lên ngôi. Sự tôn quý của nhà vua thần chẳng làm được gì để hơn. Nhà vua nếu chỉ muốn cai trị nước Tề, thì Cao Hề với Thúc Nha đã đủ. Còn nhà vua nếu muốn dựng nên nghiệp Bá, Vương, thì thiếu Quản Di Ngô e sẽ chẳng xong. Di Ngô ở nước nào nước ấy được xem trọng , chẳng thể để mất. Hoàn Công bèn nghe lời. Thế rồi cho người đến Lỗ đòi bằng được Quản Trọng, tiếng để báo thù cho thỏa lòng, nhưng sự thật là để bổ dụng. Quản Trọng vẫn biết, nên xin được chuyển giao về Tề. Bảo Thúc Nha đi đón, nhận lấy Quản Trọng, đến Đường phụ thì tháo bỏ gông cùm. Quản Trọng trai giới rồi ra mắt Hoàn Công. Được Hoàn Công tiếp đãi bằng hậu lễ, bổ làm Đại phu, cho nắm quyền chính.

Quan Trong aiming

Quản Trọng bắn Hoàn Công (tranh liên hoàn họa)

Hoàn Công có được Quản Trọng, cho Quản Trọng cùng Bảo Thúc, Thấp Bằng, Cao Hề tu chỉnh quốc chính nước Tề, cải cách quân sự lập ra quân Ngũ gia[45], đặt phép Khinh trọng để tăng cường lợi tức từ nguồn cá và muối[46], chẩn cấp kẻ bần cùng, phân phát bổng lộc cho người hiền năng, người Tề ai cũng vui mừng.

 

 

 

Qi Huangong

Tề Hoàn Công Tiểu Bạch

Năm thứ 2, Tề đánh diệt nước Đàm, Đàm Tử chạy đến Cử. Nguyên lai, trước đây khi Hoàn Công bỏ nước lưu vong, có đi ngang Đàm, bị Đàm đối xử vô lễ, nên nay đến đánh.

Năm thứ 5, Tề đánh Lỗ, tướng Lỗ thua trận. Lỗ Trang Công xin hiến Toại ấp giảng hòa, Hoàn Công chấp thuận. Tề bèn họp với Lỗ ở đất Kha để ăn thề. Lỗ sắp tuyên thệ, Tào Mạt cầm chủy thủ uy hiếp Hoàn Công ngay ở trên đàn, nói: “Hãy trả lại Lỗ đất đai đã chiếm! Hoàn Công chấp thuận, Tào Mạt bèn vứt chủy thủ, bước về hàng ngũ bề tôi hướng mặt lên phía bắc. Hoàn Công sau đó đổi ý, muốn nuốt lời và giết Tào Mạt. Quản Trọng nói: “Nuốt lời và giết kẻ ép buộc mình phải ra lời hứa chỉ là cái sướng nhỏ, nhưng đánh mất chữ tín với chư hầu, thiệt mất sự ủng hộ của thiên hạ. Không được! Tề thế rồi giao trả Lỗ những đất đai chiếm từ ba lần đánh bại Tào Mạt. Chư hầu nghe thấy, ai cũng đặt lòng tin vào Tề và muốn nương tựa Tề. Năm thứ 7, chư hầu hội nghị với Hoàn Công ở đất Chân. Hoàn Công từ đó bắt đầu làm .

Năm thứ 14, con trai của Trần Lệ Công là Hoàn, hiệu là Kính Trọng, chạy sang Tề. Tề Hoàn Công muốn dùng làm Khanh, Hoàn nhún nhường không nhận; thế rồi bổ Hoàn làm Công chính[47]. Đấy là ông tổ của Điền Thành Tử Thường[48].

Năm thứ 23, Sơn Nhung[49] đánh Yên, Yên cấp báo với Tề. Tề Hoàn Công cứu Yên, bèn đánh Sơn Nhung, tiến quân đến Cô trúc mới quay về. Yên Trang Công bèn đưa Hoàn Công về Tề. Hoàn Công nói: “Nếu không phải là Thiên tử, chư hầu tiễn đưa không đưa khỏi biên cảnh, ta không thể vô lễ với Yên. Sau đó đào cái hào đánh dấu nơi vua Yên đã đến, để cắt phần đất ấy tặng Yên, truyền mệnh sai vua Yên phục hồi nền chính trị của Thiệu Công, nạp cống cho nhà Châu, như vào thời Thành Vương, Khang Vương. Chư hầu nghe thấy, ai cũng theo Tề.

Năm thứ 27, Lỗ Mẫn Công có mẹ là bà Ai Khương, vốn là em gái của Hoàn Công. Ai Khương tư tình với công tử nước Lỗ là Khánh Phụ, Khánh Phụ giết Mẫn Công, Ai Khương muốn lập Khánh Phụ làm vua, người Lỗ lập người khác là Hi Công. Hoàn Công triệu Ai Khương về Tề rồi giết đi.

Năm thứ 28, Vệ Văn Công có loạn do người Địch gây ra, cấp báo với Tề. Tề dẫn chư hầu đắp thành ở Sở khâu và sắp đặt vua Vệ ở đó.

Năm thứ 29, Hoàn Công cùng Phu nhân là Thái Cơ dạo chơi trên thuyền. Thái Cơ quen sông nước, lắc thuyền trêu Hoàn Công; Hoàn Công sợ, bảo thôi mà không nghe; Hoàn Công rồi nổi giận, bèn bước khỏi thuyền, đưa trả Thái Cơ về nước, nhưng vẫn chưa tuyệt hôn. Thái cũng tức giận, đem Thái Cơ gả cho người khác. Hoàn Công hay tin nổi giận, cất quân đến đánh.

Năm thứ 30, mùa xuân, Tề Hoàn Công dẫn chư hầu đánh Thái, Thái vỡ chạy. Sau đó bèn đánh Sở. Sở Thành Vương cất quân kéo đến, hỏi rằng: “Cớ gì mà đến đất của ta? Quản Trọng đáp: “Ngày xưa Thiệu Khang Công truyền mệnh cho Tiên quân Thái Công nhà ta rằng: ‘Ngũ Hầu Cửu , ngươi được tự quyền đánh dẹp phù trợ nhà Châu.’ Còn tặng Tiên quân nhà ta đôi giầy, hàm ý được tự quyền chinh phạt: phía đông đến biển, phía tây đến sông Hà, phía nam đến Mục lăng, phía bắc đến Vô đệ. Cống phẩm nước Sở là cỏ mao lâu nay chẳng ai đưa đến, nên việc cúng tế của vương thất không được hoàn thiện, thế nên mới đến đây khiển trách. Còn thêm việc Chiêu Vương nam chinh không về, nên đến đây hỏi tội.[50] Sở Vương nói: “Việc cống phẩm không tiến dâng quả là có, và đấy là tội của Quả nhân, nào còn dám không cống nạp! Còn việc Chiêu Vương đi mà không về, ông hãy đến mà hỏi bến sông. Quân Tề tiến đến đất Hình. Mùa hạ, Sở Vương phái Khuất Hoàn cầm quân ngăn quân Tề, quân Tề lui về đóng ở Thiệu lăng. Hoàn Công khoe với Khuất Hoàn quân mình đông. Khuất Hoàn nói: “Ngài nếu vận dụng đạo lý họa ra còn may; bằng không, Sở dùng Phương thành làm thành, lấy Giang, Hán làm hào, ngài còn cách nào tiến đi đâu? Hoàn Công bèn cùng Khuất Hoàn giao thề[51] rồi rút quân. Đi ngang Trần, Viên Đào Đồ của Trần lừa Tề, khiến quân Tề đi khỏi miền đông[52], nhưng rồi bị khám phá. Mùa thu, Tề đánh Trần. Năm ấy, Tấn giết Thái tử Thân Sinh.

Năm thứ 35, mùa hạ, Tề họp chư hầu ở Quỳ khâu. Châu Tương Vương sai Tể khổng đem biếu Hoàn Công thịt cúng Văn Vương và Võ Vương, cung tên bằng đồng, xe Đại lộ, truyền mệnh không phải quỳ lạy khi nhận vật thưởng. Hoàn Công muốn làm theo, Quản Trọng nói: “Không được. Hoàn Công bèn xuống bệ bái nhận. Mùa thu, Hoàn Công lại họp chư hầu ở Quỳ khâu, mặt lộ sắc kiêu. Nhà Châu phái Tể khổng đến dự. Chư hầu có vài nước đã manh tâm trở lưng[53]. Tấn Hầu bệnh, đi trễ, trên đường gặp Tể khổng. Tể khổng nói: “Tề Hầu kiêu lắm, đừng đến. Tấn Hầu nghe lời. Năm ấy, Tấn Hiến Công chết, Lý Khắc giết Hề Tề và Trác Tử, Tần Mục Công vì tình Phu nhân đưa Công tử Di Ngô về nước làm vua Tấn. Hoàn Công lúc ấy cũng đến Tấn trừ loạn, tiến quân đến Cao lương, sai Thấp Bằng giúp lập vua Tấn rồi rút quân về.

Lúc bấy giờ nhà Châu suy vi, chỉ có Tề, Sở, Tần, Tấn là mạnh. Tấn có tham gia minh hội từ đầu, nhưng đến khi Hiến Công chết, nước nhiều nội loạn. Tần Mục Công ở nơi xa xôi cách trở, nên không hội thề với các nước ở Trung thổ. Còn Sở Thành Vương bắt đầu thâu gồm người Man, chiếm hữu đất Kinh, tự đặt mình là nước Di, Địch. Riêng mỗi Tề lập hội nghị ăn thề với các nước ở Trung thổ, thêm Hoàn Công khéo tuyên rao đạo đức, nên được chư hầu đến tham gia. Thế rồi Hoàn Công xướng lên rằng: “Quả nhân phía nam đánh đến Thiệu lăng, làm lễ vọng ở Hùng sơn; phía bắc đánh Sơn Nhung, Linh chi, Cô trúc; phía tây đánh Đại Hạ, vượt Lưu sa, thúc ngựa gióng xe lên núi Thái hàng, tới núi Bích nhĩ mới quay về. Chư hầu chẳng ai đối cự Quả nhân. Quả nhân tập họp binh xa ba lần[54], ngồi xe dự hội nghị sáu lần[55], tổng cộng chín lần họp chư hầu, một lần khuông định thiên hạ[56]. Ngày xưa Tam đại nhận mệnh trời, có khác gì với thế? Ta muốn làm lễ phong ở Thái sơn, lễ thiện ở Lương phụ. Quản Trọng cố can mà Hoàn Công không nghe, bèn nói với Hoàn Công rằng phải có những vật kỳ khôi và trân bảo từ phương xa đưa đến mới được làm lễ phong, Hoàn Công mới thôi.

Năm thứ 38, em của Châu Tương Vương là Đái hợp mưu với người Nhung, Địch đánh Châu, Tề phái Quản Trọng đến Châu đánh dẹp quân Nhung. Vua Châu muốn dùng lễ Thượng khanh tiếp đãi Quản Trọng, Quản Trọng khấu đầu nói: “Thần là bồi thần[57], sao dám nhận! Nhường nhịn ba lần, mới chịu theo lễ Hạ khanh ra mắt Thiên tử. Năm thứ 39, em Châu Tương Vương là Đái chạy đến Tề. Tề phái Trọng Tôn xin Tương Vương tha tội cho Đái. Tương Vương nổi giận, không nghe.

Năm thứ 44, Tần Mục Công bắt sống Tấn Huệ Công rồi quay về Tần. Cũng năm ấy, Quản Trọng và Thấp Bằng đều chết[58]. Khi Quản Trọng bệnh, Hoàn Công đến hỏi rằng: “Trong các quần thần, ai đáng làm Tướng quốc? Quản Trọng nói: “Biết tôi không ai bằng chủ[59]. Hoàn Công hỏi: “Dịch Nha[60] thế nào? Đáp rằng: “Giết cả con hòng mua lòng nhà vua, trái với nhân tình, không được.[61] Hoàn Công hỏi: “Khai Phương thế nào? Đáp: “Quay lưng với thân thích hòng mua lòng nhà vua, trái với nhân tình, khó gần.[62] Hoàn Công hỏi: “Thụ Điêu thế nào? Đáp rằng: “Tự thiến hòng mua lòng nhà vua, trái với nhân tình, khó thân.[63] Đến sau khi Quản Trọng đã mất[64], Hoàn Công quên lời Quản Trọng; rốt cuộc thân dụng ba người ấy, cho ba người ấy nắm quyền.

Năm thứ 42, Nhung đánh Châu, Châu cấp báo với Tề, Tề truyền lệnh cho chư hầu mỗi nơi điều quân đến đồn trú chống đỡ giúp Châu. Năm ấy, Công tử nước Tấn là Trùng Nhĩ đến Tề, được Hoàn Công gả vợ cho.

Năm thứ 43, nguyên lai, Hoàn Công có ba Phu nhân là: Vương Cơ, Từ Cơ, và Thái Cơ, đều không con trai. Hoàn Công háo sắc dục[65], nhiều sủng thiếp, có 6 người được ngang phận với Phu nhân là: Trưởng Vệ Cơ sinh ra Vô Quỷ[66]; Thiếu Vệ Cơ sinh ra Huệ Công Nguyên; Trịnh Cơ sinh ra Hiếu Công Chiêu; Cát Doanh sinh ra Chiêu Công Phan; Mật Cơ sinh ra Ý Công Thương Nhân; Tống Hoa Tử[67] sinh ra Công tử Ung. Hoàn Công và Quản Trọng gửi gắm Hiếu Công với Tống Tương Công, chọn làm Thái tử. Ung Vu[68] được Vệ Cung Cơ[69] tín sủng, nhờ quan hoạn Thụ Điêu mang tặng Hoàn Công nhiều phẩm vật, nên cũng được Hoàn Công sủng ái, Hoàn Công bèn hứa với họ sẽ lập Vô Quỷ. Quản Trọng chết, cả 5 Công tử đều mong được lập làm Thái tử. Mùa đông tháng 10 ngày ất hợi, Tề Hoàn Công chết. Dịch Nha vào cung, cùng Thụ Điêu cậy thế nội sủng giết hại các quan lại, và lập Công tử Vô Quỷ làm vua. Thái tử Chiêu trốn sang nước Tống.

Khi Hoàn Công còn đang bệnh, 5 Công tử mỗi người lo kết nạp bè đảng chuẩn bị tranh ngôi. Đến khi Hoàn Công chết, liền chia phe đánh nhau, vì thế nội cung trống không, chẳng ai dám nhập quan[70]. Thây ma Hoàn Công bị bỏ mặc trên sàng suốt 61 ngày, dòi bọ bò tràn ra khỏi phòng. Tháng 12 ngày ất hợi, khi Vô Quỷ đã lên ngôi mới vào cung chuẩn bị tang chế và cáo phó. Tối ngày tân tị, thi thể Hoàn Công mới được tẩm liệm và đặt vào hòm.

Hoàn Công có hơn 10 con trai, sau này được lên ngôi có 5 người: Vô Quỷ lên ngôi 3 tháng thì chết, không được đặt thụy; kế đến là Hiếu Công; kế nữa là Chiêu Công; kế nữa là Ý Công; rồi đến Huệ Công.  Hiếu Công nguyên niên, tháng 3, Tống Tương Công thống lĩnh binh đội chư hầu đưa Thái tử Chiêu đánh Tề. Tề sợ, bèn giết vua là Vô Quỷ. Tề chuẩn bị tôn Thái tử Chiêu lên ngôi, bốn Công tử họp mưu đánh úp, Thái tử bèn trốn sang Tống. Tống rồi giao chiến với phe đảng bốn Công tử. Tháng 5, Tống đánh bại quân của bốn Công tử và lập Thái tử Chiêu lên ngôi, tức Tề Hiếu Công. Tống vì được Hoàn Công và Quản Trọng gửi gắm Thái tử, nên mới đến Tề dẹp loạn. Cũng vì loạn lạc, đến tháng 8 Tề Hoàn Công mới được chôn cất[71].

Năm thứ 6 mùa xuân, Tề đánh Tống, vì Tống không đến Tề tham gia hội thề[72]. Mùa hạ, Tống Tương Công chết. Năm thứ 7, Tấn Văn Công lên ngôi.

Năm thứ 10, Hiếu Công chết, em Hiếu Công là Phan nhờ Vệ Công tử Khai Phương giết con của Hiếu Công mà lập Phan, tức Chiêu Công. Chiêu Công là con của Hoàn Công, mẹ là bà Cát Doanh.

Chiêu Công nguyên niên, Tấn Văn Công đánh bại Sở ở Thành bộc, và họp chư hầu ở Tiễn thổ để chầu nhà Châu, Thiên tử truyền mệnh cho Tấn xưng . Năm thứ 6, Địch đánh Tề. Tấn Văn Công chết. Quân Tần thất trận ở đất Hào. Năm thứ 12, Tần Mục Công chết.

Năm thứ 19 tháng 5, Chiêu Công chết, con là được lập làm vua Tề. Mẹ của Xá vốn không được Chiêu Công sủng ái, nên quốc nhân chẳng ai sợ Xá. Em của Chiêu Công là Thương Nhân trước đây cậy là con Hoàn Công nên từng tranh ngôi mà không được, bèn âm thầm kết giao hiền sĩ, tỏ lòng thương xót chúng nhân, nên được bụng bách tính. Đến khi Chiêu Công chết, con là Xá lên ngôi, Xá thân cô thế yếu. Tháng 10, Thương Nhân liền cùng thuộc hạ giết Tề Quân Xá ngay trên mộ Chiêu Công. Thương Nhân tự mình lên ngôi, tức Ý Công. Ý Công là con trai của Hoàn Công, mẹ là Mật Cơ.

Ý Công năm thứ 4 mùa xuân. Trước đây, khi Ý Công còn là Công tử, có lần đi săn với cha của Bính Nhung, tranh với ông ta thú săn mà không được, đến khi tức vị, bèn cho chặt chân cha của Bính Nhung[73], và bắt Bính Nhung làm người đánh xe. Vợ của Dong Chức[74] xinh đẹp, bị Ý Công đưa vào cung, và dùng Dong Chức làm Tham thừa[75]. Tháng 5, Ý Công đi chơi đến Thân trì. Hai người ấy đi tắm, châm chọc nhau. Chức nói: “Mày con lão cụt chân! Nhung nói: “Mày thằng bị đoạt vợ! Cả hai đều đau vì lời nói, sinh oán, bèn hợp mưu đưa Ý Công đến chơi nơi rừng trúc. Hai người giết Ý Công trên xe, vứt thây vào rừng trúc rồi bỏ trốn.

Ý Công từ khi lên ngôi, tính khí kiêu căng, không được dân theo. Người Tề bèn phế con của Ý Công và rước Công tử Nguyên từ Vệ về tôn lên ngôi, tức Huệ Công. Huệ Công là con của Hoàn Công. Mẹ là con gái nước Vệ, tức bà Thiếu Vệ Cơ, vì tránh loạn lạc ở Tề nên lánh đến Vệ.

Huệ Công năm thứ 2, Trường Địch[76] đến Tề, bị Vương tử Thành Phụ[77] đánh chết, chôn ở cổng bắc. Triệu Xuyên nước Tấn giết vua là Linh Công.

Năm thứ 10, Huệ Công chết, con là Khoảnh Công Vô Dã lên ngôi. Trước đây, Thôi Trữ vốn được Huệ Công sủng tín, đến khi Huệ Công chết, họ Cao và Quốc sợ bị Trữ chèn ép, bèn đuổi Trữ khỏi nước Tề, Thôi Trữ chạy sang Vệ.

Khoảnh Công nguyên niên. Sở Trang Vương hùng cường, đánh Trần; năm thứ 2, Sở vây Trịnh, Trịnh đầu hàng, Sở rồi trả nước cho Trịnh .

Năm thứ 6 mùa xuân, Tấn phái Khích Khắc đến Tề, Phu nhân nước Tề ngồi trong màn nhìn ra. Khích Khắc bước lên thềm, bị Phu nhân cười ngạo. Khích Khắc nói: “Nếu không báo thù này, sẽ không qua lại sông Hà! Sau khi về nước, bèn xin đánh Tề, Tấn Hầu không cho. Sứ Tề đến Tấn, Khích Khắc bắt giữ bốn viên sứ giả ở Hà nội và giết đi. Năm thứ 8, Tấn đánh Tề, Tề đưa Công tử Cường đến Tấn làm tin, quân Tấn rút về. Năm thứ 10 mùa xuân, Tề đánh Lỗ, Vệ. Đại phu Lỗ và Vệ đến Tấn xin quân, đều nhờ vào Khích Khắc. Tấn sai Khích Khắc thống lĩnh 800 cỗ chiến xa chỉ huy Trung quân, Sĩ Tiếp chỉ huy Thượng quân, Loan Thư chỉ huy Hạ quân đến cứu Lỗ, Vệ, đánh Tề. Tháng 6 ngày nhâm thân, quân Tấn gặp quân của Tề Hầu tại chân núi Mỹ kê. Ngày quý dậu, bày trận ở đất An. Bàng Sửu Phụ làm Hữu cho Tề Khoảnh Công. Khoảnh Công nói: “Xông lên! Phá quân Tấn rồi hãy dùng bữa! Bắn Khích Khắc bị thương, máu chảy xuống giầy. Khắc muốn rút về bờ lũy, người cầm cương nói: “Tôi mới xung trận đã dính hai vết thương, nhưng không dám kêu đau vì sợ làm sĩ tốt rúng động, nguyện ông ráng nhịn. Thế rồi tái chiến. Đôi bên đánh nhau, quân Tề nguy cấp, Sửu Phụ sợ Tề Hầu bị bắt, bèn đổi chỗ với nhau, Khoảnh Công làm Hữu, chiến xa bị vướng vào bụi cây không đi được. Tiểu tướng của Tấn là Hàn Quyết quỳ trước xe của Tề Hầu, nói khoáy rằng: “Vua côi tệ quốc sai thần đến cứu Lỗ, Vệ. Sửu Phụ sai Khoảnh Công xuống xe lấy nước uống, Khoảnh Công nhân đấy trốn thoát[78] về lại nơi đóng quân. Khích Khắc muốn giết Sửu Phụ. Sửu Phụ nói: “Người đại quân tử mà bị tru diệt, đời sau bề tôi chẳng còn ai trung với vua. Được Khắc tha, Sửu Phụ bèn trốn về Tề. Thế rồi quân Tấn đuổi theo quân Tề đến Mã lăng. Tề Hầu xin dâng bảo khí tạ tội[79], Khích Khắc không nghe, đòi cho bằng được người đã cười mình là Tiêu Đồng Thúc Tử[80], và bắt Tề phải quy hoạch đất theo hướng đông tây[81]. Sứ giả Tề đáp: “Thúc Tử là mẹ của vua Tề. Mà mẹ vua Tề thì cũng như mẹ vua Tấn, ông sẽ ứng xử thế nào? Vả lại ông vì nghĩa chinh phạt, mà kết cục sinh bạo ngược, có thể thế mà được sao? Khích Khắc thế rồi đành chấp thuận, bắt Tề trả lại những đất đai đã chiếm của Lỗ và Vệ [82].

Năm thứ 11, Tấn bắt đầu đặt Lục khanh, thưởng công ở trận An. Tề Khoảnh Công đến Tấn triều kiến, muốn tôn Tấn Cảnh Công làm vương, Cảnh Công không dám nhận, Khoảnh Công bèn quay về. Sau khi về nước, Khoảnh Công lìa xa uyển hữu, chiết giảm thuế má, thăm hỏi kẻ neo đơn, thương tích, dốc hết kho tàng để cứu dân, dân Tề vì thế lại vừa lòng. Tề còn hậu lễ các nước chư hầu. Thế rồi đến cuối đời Khoảnh Công, được lòng bách tính quy về, chư hầu không dám xâm phạm[83].

Năm thứ 17, Khoảnh Công chết[84], con là Linh Công Hoàn lên ngôi.

Linh Công năm thứ 9, Loan Thư nước Tấn giết vua là Lệ Công. Năm thứ 10, Tấn Điệu Công đánh Tề, Tề sai Công tử Quang sang Tấn làm tin. Năm thứ 19, lập Quang làm Thái tử, có Cao Hậu phù tá, truyền lệnh cho chư hầu đến ăn thề ở Chung ly. Năm thứ 27, Tấn sai Trung hàng Hiến Tử[85] đánh Tề. Quân Tề thua trận, Linh Công chạy về Lâm truy. Yến Anh ngăn Linh Công, Linh Công không nghe. Yến Anh nói: “Nhà vua chẳng có tí dũng khí nào vậy! Quân Tấn bèn vây Lâm truy, quân Tề giữ thành chẳng dám kéo ra, quân Tấn đốt phá tường thành phía ngoài rồi rút đi.

Năm thứ 28, nguyên lai, Linh Công trước đã cưới con gái nước Lỗ, sinh ra Tử Quang, chọn làm Thái tử. Ngoài ra còn có vợ là Trọng Cơ và Nhung Cơ. Nhung Cơ được sủng ái, Trọng Cơ sinh ra con là Nha, phó thác cho Nhung Cơ. Nhung Cơ xin cho Nha làm Thái tử, được Linh Công hứa hẹn. Trọng Cơ nói: “Không được. Quang đã được lập làm Thái tử, đã đứng sánh vai với chư hầu[86]. Nay vô cớ mà phế, nhà vua hẳn sẽ hối. Linh Công nói: “Cái gì cũng do ta tự quyết. Bèn chuyển Quang đến miền đông, sai Cao Hậu phù tá Nha làm Thái tử. Linh Công bệnh, Thôi Trữ đón cựu Thái tử Quang về tôn lên ngôi, tức Trang Công. Trang Công giết Nhung Cơ. Tháng 5 ngày nhâm thìn, Linh Công chết, Trang Công chính thức tức vị, bắt Thái tử Nha tại gò đất ở Cú đậu, giết đi. Tháng 8, Thôi Trữ giết Cao Hậu. Tấn được tin Tề loạn, bèn đánh Tề, tiến quân đến Cao đường.

Trang Công năm thứ 3, Đại phu Loan Doanh[87] nước Tấn chạy sang Tề, được Trang Công hậu đãi làm khách. Yến Anh và Điền Văn Tử can ngăn, Trang Công không nghe. Năm thứ 4, Tề Trang Công sai Loan Doanh ngầm đến Tấn, về Khúc ốc làm nội ứng, còn mình dẫn quân theo sau, vượt Thái hàng, kéo vào Mạnh môn. Loan Doanh thất bại, quân Tề rút về, chiếm Triều ca.

Năm thứ 6, nguyên lai, vợ của Đường Công vốn là người xinh đẹp, Đường Công chết, Thôi Trữ đoạt làm vợ. Trang Công tư thông với bà ta, nhiều lần đến nhà họ Thôi, còn lấy mão của Thôi Trữ tặng cho người khác mặc đám thị tùng can ngăn là không nên. Thôi Trữ tức giận, nhân khi Trang Công đánh Tấn, muốn mật mưu với Tấn đánh úp Tề nhưng chưa có dịp. Trang Công từng đánh đòn quan hoạn là Giả Cử, nhưng lại chọn Giả Cử hầu hạ mình, Giả Cử bèn giúp Thôi Trữ dò thám Trang Công hòng báo oán. Tháng 5, Cử Tử đến triều kiến Tề, được Tề thết đãi vào ngày giáp tuất. Thôi Trữ cáo bệnh không ra coi việc. Ngày ất hợi, Trang Công đến hỏi thăm Trữ, rồi bám theo vợ Thôi Trữ. Vợ Trữ bước vào nội phòng, cùng Trữ đóng hết cửa nẻo không chịu ra, Trang Công ôm cột hát[88]. Quan hoạn Giả Cử ngăn đám tùy tòng của Trang Công bắt đứng ở ngoài, bước vào khuông trang Thôi Trữ, đóng cổng; sau đó thuộc hạ Thôi Trữ cầm binh khí từ trong kéo ra sân. Trang Công leo lên đài xin thả, họ không cho; xin ước thề, họ không cho; xin tự sát ở Thái miếu, họ cũng không cho. Mỗi lần đều đáp: “Bề tôi Trữ của nhà vua đang bệnh, chẳng thể nhận lệnh truyền. Nơi này nằm cạnh cung điện nhà vua, bọn bồi thần chúng tôi đang truy lùng vì có kẻ gian dâm, chẳng biết đến mệnh lệnh nào khác. Trang Công cố leo qua tường, bị bắn trúng đùi, Trang Công rơi xuống đất, thế là bị giết. Yến Anh đứng ở ngoài cổng nhà Thôi Trữ, nói: “Nhà vua nếu vì xã tắc mà chết, thì phải chết theo, nếu vì xã tắc mà trốn, thì phải trốn theo, còn nếu chỉ vì bản thân mà chết, vì bản thân mà trốn, thì ngoài những người thân mật, còn ai dám hết lòng![89] Cổng nhà bèn được mở ra cho Yến Anh vào; Yến Anh gối đầu Trang Công lên đùi mà khóc, nấc lên ba lần rồi bước ra. Có người nói với Thôi Trữ: “Ắt phải giết! Thôi Trữ nói: “Người ấy được dân trông vọng, cứ tha để lấy lòng dân.

Ngày đinh sửu, Thôi Trữ lập em khác mẹ của Trang CôngXử Cữu[90] lên ngôi, tức Cảnh Công. Mẹ của Cảnh Công là con gái của Thúc tôn Tuyên nước Lỗ. Cảnh Công lên ngôi, dùng Thôi Trữ làm Hữu Tướng quốc, Khánh Phong làm Tả Tướng quốc. Hai người sợ loạn lại nổi lên, bèn bắt quốc nhân tuyên thệ với mình rằng: “Người nào không theo Thôi, Khánh thì phải chết! Yến Tử ngưỡng mặt lên trời nói: “Anh này quyết không chịu thế, chỉ người nào trung với vua, ích với nước thì Anh mới theo! Và không chịu thề. Khánh Phong muốn giết Yến Tử, Thôi Trữ nói: “Đấy là trung thần, hãy tha cho hắn. Thái sử nước Tề biên xuống rằng: “Thôi Trữ giết Trang Công”,  bèn bị Thôi Trữ giết. Người em cũng viết y như thế, Thôi Trữ lại giết đi. Người em út cũng viết như thế nữa, Thôi Trữ đành tha.

Cảnh Công năm thứ nhất, từ trước, Thôi Trữ đã có con trai là Thành và Cường; mẹ của hai người ấy chết, Trữ lại cưới con gái họ Đông quách, sinh ra Minh. Bà Đông quách sai con trai của chồng trước là Vô Cữu cùng em là Yển coi việc cho họ Thôi. Thành có lỗi[91], liền bị hai người ấy trị tội, và lập Minh làm Thái tử. Thành xin được cấp ấp Thôi để dưỡng lão, Thôi Trữ nhận lời, nhưng hai người kia không chịu, nói: “Thôi là tông ấp, chẳng thể đem cho. Thành và Cường tức giận, nói lại với Khánh Phong[92]. Khánh Phong với Trữ vốn có hiềm khích, vẫn mong Trữ bị tàn bại. Thành và Cường giết Vô Cữu và Yển ở nhà Thôi Trữ, mọi người đều chạy trốn. Thôi Trữ nổi giận, sai một viên hoạn giả đánh xe đưa mình đến gặp Khánh Phong. Khánh Phong nói: “Xin vì ngài giết chúng. Và sai kẻ thù của Thôi Trữ là Lô Bồ Phách đánh nhà họ Thôi, giết Thành và Cường, tận diệt gia tộc họ Thôi, vợ Thôi Trữ tự sát. Thôi Trữ về đến nhà, cũng tự sát. Khánh Phong một mình làm Tướng quốc, nắm hết quyền hành.

Năm thứ 3 tháng 10, Khánh Phong rời thành đi săn. Nguyên lai, sau khi Khánh Phong giết Thôi Trữ, càng sinh kiêu, ham rượu chè mê săn bắn, không đoái đến chính lệnh. Khánh Xá[93] nắm quyền, trong nhà nảy sinh hiềm khích. Điền Văn Tử bảo Hoàn Tử rằng: “Loạn sắp nổi lên. Bốn họ Điền, Bảo, Cao, Loan cùng nhau hợp mưu với Khánh Xá. Khánh Xá cho giáp sĩ vây cung của Khánh Phong, đồ đảng bốn nhà cũng hợp sức bao vây. Khánh Phong về, không vào được thành, bèn trốn sang Lỗ. Tề trách Lỗ, Phong chạy đến Ngô. Ngô cấp cho Khánh Phong đất Chu phương để tụ tập tông tộc mà ở, giàu có hơn lúc ở Tề. Mùa thu năm ấy, Tề cải táng Trang Công, tru lục thi thể Thôi Trữ ở chợ để thỏa lòng chúng.

Năm thứ 9, Cảnh Công sai Yến Anh đến Tấn. Anh nói riêng với Thúc Hướng rằng: “Quyền chính nước Tề rốt cuộc sẽ về tay họ Điền. Họ Điền tuy không có đạo đức gì to tát, lợi dụng quyền công vun lợi riêng, nhưng biết tạo ân đức với dân, được dân yêu mến. Năm thứ 20, Cảnh Công đến Tấn gặp Tấn Bình Công, muốn cùng đánh Yên. Năm thứ 18, Cảnh Công lại đến Tấn, gặp Chiêu Công. Năm thứ 26, Cảnh Công đi săn ở ngoại vi nước Lỗ, nhân đấy đến đô thành, cùng Yến Anh hỏi về lễ nghi nước Lỗ. Năm thứ 31, Lỗ Chiêu Công lánh nạn họ Quý, chạy đến Tề. Tề muốn lấy 1.000 xã phong cho ông ta[94], Tử Gia ngăn Lỗ Chiêu Công đừng nhận, Chiêu Công bèn xin Tề đánh Lỗ, chiếm đất Vận, bèn thiết lập Chiêu Công ở đấy.

Năm thứ 32, sao chổi xuất hiện. Cảnh Công đang ngồi trong bách tẩm, than rằng: “Phòng sảnh sang trọng thế này, rồi ai sẽ hưởng thụ nó? Quần thần đều khóc, riêng Yến Tử cười, Cảnh Công tức giận. Yến Tử nói: “Thần cười đám bề tôi quá xiểm nịnh. Cảnh Công nói: “Sao chổi hiện ở hướng đông bắc, ứng vào lãnh phận của Tề, Quả nhân vì thế lo sợ. Yến Tử nói: “Nhà vua xây đài cao đào hồ sâu, thuế má thu chẳng còn gì để lấy, hình phạt nhiều sợ không còn gì để làm, đến Bối tinh còn sắp xuất hiện, sao chổi đáng gì mà lo? Cảnh Công hỏi: “Có thể làm lễ cầu an chăng? Yến Tử nói: “Nếu lời khấn khiến được thần linh đến, thì lời trù có thể khiến thần linh đi. Bách tính oán khổ đến hàng vạn, mà nhà vua chỉ sai một người cầu an, thì làm sao nói  hơn được miệng của bấy nhiêu người? Lúc bấy giờ vì Cảnh Công ham thích xây cất cung thất, thu nhặt chó ngựa, thích xa hoa, thuế má cao, hình phạt nặng, nên Yến Tử mới can như thế.

Năm thứ 42, Ngô Vương Hạp Lư đánh Sở, tiến vào Dĩnh đô.

Năm thứ 47, Dương Hổ nước Lỗ đánh chủ, nhưng không thắng, chạy sang Tề, xin Tề đánh Lỗ. Bảo Tử can Cảnh Công, bèn bỏ tù Dương Hổ. Dương Hổ trốn thoát, chạy sang Tấn.

Năm thứ 48, Tề mở hội nghị giao hảo với Lỗ Định Công ở Giáp cốc. Lê Tư nói: “Khổng Khâu tuy sành lễ nhưng nhát, xin sai đám người Lai xướng nhạc, nhân đấy bắt vua Lỗ, có thể được đắc chí. Cảnh Công ghét Khổng Khâu làm Tướng quốc nước Lỗ, sợ Lỗ làm nên bá nghiệp, nên nghe theo kế của Lê Tư. Đang khi hội họp, cho đoàn nhạc công người Lai kéo ra, Khổng Tử bước lên thềm, sai Hữu tư bắt đám người Lai đem chém, viện lễ trách lỗi Cảnh Công. Cảnh Công hỗ thẹn, bèn trả Lỗ những đất đã chiếm để tạ lỗi, và bãi hội quay về. Năm ấy, Yến Anh chết.

5975523_201506110740450908

Khổng Tử bắt lỗi Tề.

Năm thứ 55, họ Phạm và Trung hàng phản vua ở Tấn, bị Tấn vây đánh ngặt nghèo, bèn cho người đến Tề xin cấp thóc. Điền Khất[95] muốn làm loạn, lập bè đảng với các nghịch thần, nên thuyết phục Cảnh Công: “Phạm và Trung hàng nhiều lần có ơn với Tề, chẳng thể không cứu. Tề bèn phái Khất đến cứu và cho chở thóc đi.

Năm thứ 58, mùa hạ, người con đích của Cảnh Công là con của Phu nhân Yên Cơ chết. Sủng thiếp của Cảnh Công là Nhuế Cơ sinh con là Đồ. Đồ còn bé, mẹ phận hèn, không phẩm hạnh, các Đại phu sợ Đồ nối tự, bèn nói với Cảnh Công xin chọn trong các con ai hiền năng nhất làm Thái tử. Cảnh Công cao tuổi, ghét nói đến việc kế vị, lại sủng ái mẹ của Đồ, vẫn muốn lập Đồ, nhưng còn ngại chưa nói ra miệng, bèn bảo các Đại phu: “Cứ vui đã, nước sợ gì không có vua? Mùa thu, Cảnh Công bệnh, truyền lệnh cho Quốc Huệ Tử và Cao Chiêu Tử[96] lập con út là Đồ làm Thái tử, trục xuất hết các Công tử khỏi kinh thành, đưa họ đến đất Lai. Cảnh Công chết, Thái tử Đồ lên ngôi, tức Yến Nhụ Tử. Mùa đông, Cảnh Công vẫn chưa chôn, các Công tử sợ bị giết, đều trốn ra nước ngoài. Các anh khác mẹ của Đồ là Công tử Thọ, Câu, và Kiều ba người chạy đến Vệ, Công tử Tảng và Dương Sinh hai người chạy sang Lỗ. Người Lai làm lời ca rằng: “Cảnh Công chết chừ, vẫn chưa chôn. Việc ba quân chừ, chẳng dự can. Bè chừ đảng chừ, biết theo ai chừ?

Yến Nhụ Tử năm thứ nhất, mùa xuân, Điền Khất giả vờ phụng sự hai nhà Cao và Quốc, mỗi lần có thiết triều vào chầu, xin ngồi cùng xe, nói với họ rằng: “Các ông nắm giữ nhà vua, nên các Đại phu ai nấy tự nguy, muốn mưu đồ dấy loạn. Lại bảo các Đại phu rằng: “Cao Chiêu Tử là người đáng sợ, nhân khi ông ta chưa xuống tay, phải ra tay trước. Các Đại phu nghe lời. Tháng 6, Điền Khất, Bảo Mục bèn cùng các Đại phu dẫn quân tiến vào cung điện nước Tề đánh Cao Chiêu Tử. Chiêu Tử được tin, bèn cùng Quốc Huệ Tử cứu vua Tề. Quân nhà vua thua, bị đồ đảng Điền Khất truy đuổi, Quốc Huệ Tử chạy sang Cử, bọn Khất rồi quay lại giết Cao Chiêu Tử. Yến Ngữ[97] chạy sang Lỗ. Tháng 8, Bỉnh Ý Tư nước Tề chạy sang Lỗ. Điền Khất đã đánh bại hai Tướng quốc, bèn sai người đến Lỗ mời Công tử Dương Sinh. Dương Sinh đến Tề, ẩn trong nhà Điền Khất. Tháng 10 ngày mậu tí, Điền Khất ngỏ lời mời các Đại phu rằng: “Mẹ Thường làm món cá với đậu để cúng, mời các ông đến họp mặt uống rượu.Đến bữa tiệc, Điền Khất giấu Dương Sinh trong một cái đãy, đặt ở giữa phòng, sau đó nhấc đãy mời Dương Sinh bước ra, nói: “Đấy là vua Tề! Các Đại phu đều quỳ lạy yết kiến. Đến khi Khất chuẩn bị cùng các Đại phu tuyên thệ quyết lập Dương Sinh lên ngôi, thì Bão Mục đã say, Khất bèn nói xằng với các Đại phu rằng: “Ta với Bảo Mục vốn đồng mưu lập Dương Sinh. Bảo Mục nổi giận nói: “Ông đã quên mất di mệnh của Cảnh Công rồi chăng? Các Đại phu nhìn nhau có ý hối hận, Dương Sinh đến trước mặt họ, khấu đầu nói: “Nếu được thì lập, bằng không thì thôi vậy. Bảo Mục sợ họa lại phát sinh, bèn đáp trả rằng: “Cùng là con của Cảnh Công cả, có gì mà không được! Bèn cùng nhau ăn thề, rồi lập Dương Sinh lên ngôi, tức Điệu Công. Điệu Công vào cung, sai người chuyển Yến Nhụ Tử đến đất Đài, giết ở trong lều, và cho trục xuất mẹ của Nhụ Tử là Nhuế Tử. Nhuế Tử vì phận hèn và Nhụ Tử còn nhỏ tuổi, nên không có quyền hành, bị quốc nhân khinh rẻ.

Điệu Công năm thứ nhất, Tề đánh Lỗ, chiếm Hoan và Xiển. Trước đây, khi Dương Sinh lưu vong ở Lỗ, Quý Khang Tử gả em gái cho làm vợ. Đến khi về nước lên ngôi, sai người đến đón. Quý Cơ tư tình với Quý Phường Hầu[98] và sự việc đã vỡ lở, Lỗ không dám đưa Quý Cơ đến Tề, nên Tề đánh Lỗ, nhất định đón Quý Cơ. Quý Cơ được sủng ái, Tề trả lại cho Lỗ đất đai đã chiếm.

Bảo Tử với Điệu Công có hiềm, chẳng hòa hợp với nhau. Năm thứ 4, Ngô và Lỗ đánh miền nam nước Tề. Bảo Tử giết Điệu Công, cáo phó với Ngô. Ngô Vương Phù Sai khóc tang ở ngoài quân môn ba ngày, muốn từ biển đánh vào thảo phạt nước Tề. Bị quân Tề đánh bại, quân Ngô bèn rút đi. Triệu Ưởng của Tấn đánh Tề, đến đất Lại rồi rút đi. Người Tề lập con của Điệu CôngNhâm lên ngôi, tức Giản Công.

Giản Công năm thứ 4 mùa xuân, trước đấy, khi Giản Công cùng cha là Dương Sinh đều còn ở Lỗ, sủng ái một người là Hám Chỉ. Đến khi tức vị, Hám Chỉ được nắm quyền chính. Điền Thành Tử sợ Hám Chỉ, nên ở nơi triều đường hay ngoái cổ đề phòng. Người đánh xe cho Giản Công tên Ưởng[99] nói với Giản Công rằng: “Điền với Hám chẳng thể cùng đứng, nhà vua phải chọn lấy một. Giản Công không nghe. Tử Ngã[100] đi tuần buổi tối, bắt gặp Điền Nghịch[101] giết người, bèn truy bắt, tống giải vào triều. Họ Điền lúc ấy đang hòa thuận, bèn sai Nghịch trá bệnh và tặng rượu cho người canh tù, đến khi người ấy say thì Nghịch giết đi, và trốn thoát. Tử Ngã ăn thề với những người họ Điền tại nhà tông trưởng của họ Trần[102]. Trước đất, có Điền Báo muốn làm tôi phụng sự Tử Ngã, bèn nhờ Công Tôn giới thiệu Báo, nhưng vì Báo có tang nên việc ấy tạm thôi. Nhưng rốt cuộc cũng trở thành tôi của Tử Ngã, được Tử Ngã quý trọng. Tử Ngã bảo Báo rằng: “Ta muốn đuổi hết họ Điền mà lập ngươi, có được chăng? Đáp rằng: “Tôi chỉ là dòng xa của họ Điền. Hơn nữa chẳng qua chỉ vài người sai trái, sao lại đuổi tất cả! Bèn báo lại với họ Điền. Tử Hành nói: “Bọn chúng nắm được nhà vua, nếu không ra tay trước, hẳn mang họa chết cả. Tử Hành từ đó bèn nghỉ đêm ngay trong cung vua Tề[103].

Mùa Hạ tháng 5 ngày nhâm thân, anh em Thành Tử ngồi lên bốn xe đến gặp Giản Công[104]. Tử Ngã đang ở trong trướng, bước ra đón chào, anh em họ Điền bèn bước vào cung, đóng cổng lại[105]. Những quan hoạn nào chống cự đều bị Tử Hành giết chết. Giản Công đang uống rượu với thê thiếp tại Đàn đài, bị Thành Tử dời vào khu phòng ngủ. Giản Công cầm cái qua muốn đánh Thành Tử, Thái sử Tử Dư nói: “Việc này chưa hẳn đã vô ích, hắn sẽ trừ hại giúp ta.” Thành Tử lúc ấy đã rời phòng đến kho vũ khí, nghe nói Giản Công nổi giận, nên muốn trốn khỏi nước Tề, nói: “Ở đâu mà chẳng có vua! Tử Hành tuốt kiếm nói: “Do dự là kẻ thù của đại sự. Ở đây có ai chẳng là họ Điền? Người nào không giết ông là có tội với tông tộc họ Điền.[106] Thành Tử mới thôi. Tử Ngã về dinh, tụ tập thuộc hạ đánh vào cổng chính lẫn cổng bên của cung điện, không thắng được nơi nào, bèn chạy trốn. Họ Điền truy đuổi. Người ấp Phong khâu trói giữ Tử Ngã báo với họ Điền, Tử Ngã rồi bị giết tại Quách quan. Thành Tử sắp giết Đại lục Tử Phương[107], được Điền Nghịch xin giúp tha chết. Theo lệnh Giản Công, Tử Phương đoạt lấy một xe đang đi trên đường, rời khỏi thành theo lối cổng Ung môn. Điền Báo tặng xe cho Tử Phương, Tử Phương không nhận, nói: “Nghịch xin giúp cho ta, Báo đưa xe cho ta, là ta thành lập quan hệ riêng với họ. Đã thờ Tử Ngã mà có quan hệ riêng với kẻ thù của ông ta, thì làm sao còn nhìn mặt kẻ sĩ Lỗ, Vệ? [108]

Ngày canh thìn, Điền Thường bắt Giản Công tại Từ châu. Giản Công nói: “Ta nếu trước đây theo lời Ngự Ưởng, đã đã chẳng đến nỗi này. Ngày giáp ngọ, Điền Thường giết Giản Công ở Từ châu. Điền Thường rồi lập em Giản CôngNgao lên ngôi, tức Bình Công. Bình Công tức vị, Điền Thường làm Tướng quốc, nắm hết quyền chính nước Tề, cắt đất Tề từ An bình sang đông làm phong ấp cho họ Điền.

Bình Công năm thứ 8, Việt diệt Ngô. Năm thứ 25 Bình Công chết, con là Tuyên Công Tích lên ngôi.

Tuyên Công ở ngôi 51 năm thì chết, con là Khang Công Thải lên ngôi. Điền Hội làm phản ở Lẫm khâu.

Khang Công năm thứ 2, Hàn, Ngụy, Triệu bắt đầu được liệt vào hàng chư hầu. Năm thứ 19, tằng tôn của Điền Thường là Điền Hòa bắt đầu làm chư hầu, Khang Công bị dời đến Hải tân.

Năm thứ 26, Khang Công chết, họ Lữ thế là tuyệt tự. Họ Điền rốt cuộc chiếm hữu nước Tề, đến đời Tề Uy Vương, mạnh nhất thiên hạ.

Thái sử công nói: Ta đến Tề, từ Thái sơn trải đến Lang tà, kéo lên phía bắc đến biển, đất tốt 2000 dặm, dân chúng giàu có lại khôn ngầm, đó là thiên tính của họ vậy. Với tài thánh của Thái Công, lập nên căn bản cho nước, đến thời thịnh trị của Hoàn Công, tu chỉnh chính trị, hội họp chư hầu ăn thề, xưng bá, chẳng cũng nên sao? Rộng lớn làm sao, nhờ có phong độ của một đại quốc vậy!


[1] Theo Tiêu Châu, ông “họ Khương, tên Nha. Thuộc dòng Viêm Đế, con cháu của Bá Di, có người làm Tứ Nhạc có công, được phong ở đất Lữ, con cháu lấy đó làm họ, Thượng là con cháu của họ.” Khi Văn Vương gặp được Lữ Thượng ở bến Vị tân, nói rằng: “Tiên quân Thái Công nhà ta trông ông đã lâu lắm.” (Ngô Tiên quân Thái Công vọng tử cửu hĩ – Thái Công tức Châu Thái Công, tức Cổ Công Đản Phụ, người thành lập nước Châu tại bình nguyên Châu nguyên, Châu Bản kỷ), nên Lữ Thượng được gọi là Thái Công Vọng. Tự của ông là Nha. Sau này Võ Vương gọi ông là Sư Thượng phụ.
[2] Theo Lữ thị Xuân thu, đây là đất của người Đông Di.
[3] Theo Từ Quảng, ấp Lữ nằm tại phía tây huyện Uyển, quận Nam dương (đời Hán). Nay cũng là Nam dương.
[4] Thân cũng nằm trong địa phận huyện Uyển, quận Nam dương. Đến đầu đời Đông Châu vẫn tồn tại (là nước của Thân ).
[5] Nguồn gốc Lữ Thượng được thêu dệt ra sao, chẳng thể nào khảo chứng, riêng một điều gần như chắc chắn là ông họ Khương. Theo một số nghiên cứu và khám phá gần đây, họ Khương xuất nguồn từ dân tộc Khương. Người Khương từ lâu đã sinh sống ở vùng Cam túc, nhà Châu nổi lên từ vùng Cam túc. Châu Thái Công và Châu Võ Vương đều có vợ họ Khương, mối quan hệ thông gia này được nhắc đến nhiều lần trong Tả truyện. Có thể mường tượng giữa họ Cơ và họ Khương có mối quan hệ liên minh, và Khương Thượng là trợ thủ đắc lực của nhà Châu. (Tham khảo thêm phần chú thích từ Nienhauser – Grand Scribe’s records volume 5, part 1 – T’ai-kong of Ch’i, Heredirary house 2)

 

[6] Còn có thêm một thuyết đương đại rằng Khương Thượng đầu tiên được phong ở đất Lữ, sau đó mới chuyển đến Doanh khâu. Vì thế mang họ Lữ.
[7] Theo Tiêu Châu, Lữ Vọng từng làm nghề bán thịt ở Triều ca (kinh đô của Ân Trụ), và bán rượu ở bến Mạnh tân.
[8] Tuổi tác của Lữ Thượng được cường điệu hóa do các nhà du thuyết thời Chiến quốc. Lữ Thượng chết năm thứ 6 triều Châu Khang Vương, tính theo số tuổi các nhà du thuyết dùng, thì ông sống đến hơn 140 tuổi. (Tham khảo thêm phần chú thích từ Nienhauser).
[9] Long: rồng có sừng, Ly: rồng không sừng.
[10] Bi: gấu lớn.
[11] Tức Cổ Công Đản Phụ, người sáng lập nước Châu tại Châu nguyên (Châu Bản kỷ)

[12] Theo Tục Hán thư, Quận quốc chí, nước Sùng nằm ở phía bắc huyện Lẫm khâu, Đông quận, nước Mật tu nằm ở phía đông huyện Mật, quận Hà nam. (Theo bản đồ đời Hán – Nam Bắc triều – nd).
[13] Danh hiệu Võ Vương gọi Lữ Thượng. Sư là thầy. Theo Lưu Hướng, Thượng là “nam tử chi mỹ hiệu”. Phụ là cha.
[14] Theo Mã Dung (đời Hán), Thương hủy là chức quan coi về thuyền bè. Nhưng theo Vương Sung (cũng đời Hán), Thưởng hủy là thủy thú 9 đầu. Gọi Thương hủy đến làm chứng lời thề để mọi người kính sợ.
[15] Lời Thái thệ được chép lại trong Thượng thư – Châu thư, gồm 3 thiên. Đại ý là diễn văn chính trị tuyên cáo với thiên hạ và trời đất, kể tội Trụ Vương cũng như xưng tụng chính nghĩa của việc Châu muốn dùng quân sự để đánh đổ nhà Thương.
[16] Theo Từ Quảng, có bản chép “Năm thứ 3” (Không hợp lý, năm thứ 9 đã khởi quân một lần, hai năm sau không thể trở lại thành năm thứ 3 – nd).

[17] Đền, hoặc đàn Xã, là nơi cúng tế thần thổ địa. Đời xưa tin đất là nguồn của vạn sự sống, nên lập đền thờ, là nơi tế tự, cầu mưa, và cũng là nơi tụ họp công chúng.
[18] Theo Sử ký, Châu Bản kỷ, người bưng nước sạch là Mao Thúc Trịnh.
[19] Súc vật còn sống để giết tế thần.
[20] Theo Quát Địa chí, Doanh khâu nằm ở Lâm truy.
[21] Theo Khổng An Quốc, tức thổ dân vùng lưu vực sông Hoài, Tứ.
[22] Theo Đỗ Dự, “Ngũ Hầu, Cửu Bá”  là năm cấp chư hầu (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam), và Châu Bá của chín châu. Nhưng giải thích đó không thỏa đáng lắm. Đây là điều lệnh cho phép Tề Thái Công chinh phạt trong phạm trù đã giao, và trong phạm trù đó, có lẽ có năm chư hầu tước hầu, chín chư hầu tước bá (nd).
[23] Theo Lễ ký, từ đời Thái Công đến 5 đời sau, sau khi chết, được đưa về chôn cất ở đất nhà Châu. Nhưng theo Trịnh Huyền, Thái Công tuy được phong ở Doanh khâu, nhưng ở lại kinh đô nhà Châu giữ chức Thái sư, đến 5 đời sau mới được cải táng đưa di cốt đến Tề. Sách Hoàng lãm soạn đời Tam quốc cho rằng mồ mã của Lữ Thượng nằm ở phía nam huyện thành Lâm truy, cách 10 dặm.
[24] Đinh, Ất, Quý là 3 trong 10 Thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý), rõ ràng lúc này Tề chưa đặt tên bụt theo Thụy pháp, nhưng cũng không rõ cách đặt tên bụt theo Thiên can như thế này là dựa thứ tự nào (nd).

[25] Vào đời Châu Di Vương.
[26] Theo Thụy pháp, hưởng trọn tuổi thọ thì tên thụy là Hồ. Hồ nghĩa đen là mảng da nơi cổ, người và vật lớn tuổi có mảng da chùng nơi cổ.
[27] Theo Quát địa chí soạn vào đời Đường, Bạc cô nằm cách thành huyện Bác xương 60 dặm về phía đông bắc, thuộc Thanh Châu.
[28] Theo Tống Trung, bè đảng của Sơn giết Hồ Công ở Bối thủy.
[29] Hiến nghĩa đen là dâng, đưa, đóng góp. Theo Thụy pháp ai thông minh, mẫn duệ, có thánh chất thì được đặt tên thụy là Hiến.
[30] Theo Tư mã Thiên, Châu Lệ Vương hà khắc, bị dân đánh đuổi khỏi kinh đô, triều đình do các quan hợp lại điều hành, nên gọi là Cộng hòa. Và đây cũng là lý do thể chế Republic được dịch sang tiếng Hán-Việt là Cộng hòa. Tuy nhiên, cha con Tư mã Thiên đã sai lầm ở điểm này. Theo quan điểm khác đã được chứng thực bởi khám phá khảo cổ là văn bản khắc lên các loại tế khí từ đời Châu ở giai đoạn này vừa đào được, người đứng ra cai trị khi Lệ Vương bỏ trốn là Cung Hòa, tức Cung Hòa. Chữ 共có thể được phiên âm là Cung, và cũng có thể được phiên âm là Cộng.
[31] Lệ có nghĩa là bạo ngược, ý nói cai trị tàn bạo.
[32] Thành có nghĩa là thành đạt, ý nói cai trị có thành tựu.
[33] Trang có nghĩa là nghiêm trang, ý nói là người có dáng vẻ nghiêm túc.
[34] Hi có nghĩa là may mắn, ý nói là người có phúc.

[35] Tương nghĩa đen là giúp ích (helpful). Theo Thụy pháp, người nào nhọc sức với binh, giáp, người nào có công mở rộng đất đai thì được đặt tên thụy này.
[36] Em cùng cha khác mẹ.
[37] Theo Sử ký, Kỷ bỏ đô thành, hàm ý dời đến nơi mới. Theo Xuân thu, Kỷ Hầu Đại bỏ nước mà đi.
[38] Theo Phục Kiền, nhằm vào cỡ tháng 7 âm lịch.
[39] Theo Tả truyện, Tương Công đi săn ở Bối khâu.

[40] Có hai thuyết. Theo Tả truyện, với lời chú của Giả Quỳ và Đỗ Dự, Ung Lâm (hay Ung Lẫm) là tên của Đại phu ấp Cừ khâu. Tương Vương đến chơi Cừ khâu bị Ung Lẫm giết. Tuy nhiên, theo Sử ký như được diễn tả ở câu sau, Ung lâm là tên ấp, người giết Vô Tri không rõ tên.
[41] Theo Giả Quỳ, Cao Hề là chính là Chính khanh Cao Kính Trọng nước Tề.
[42] Theo Thụy pháp, chinh phục viễn phương, thôn tính nước người thì có thể đặt tên thụy là Hoàn.
[43] Nguyên văn: Ôn xa – xe kín che chắn bốn bề, cũng dùng để chở xác chết.
[44] Muốn xin được giải về Tề, nên xin làm tù nhân.

[45] Quốc ngữ: Quản Tử đặt quy chế khắp trong nước: Người đăng lính mỗi năm nhà lập thành một quỹ — có một chỉ huy, mười quỹ hợp thành một lý – có một chỉ huy, bốn hợp thành một liên – có một chỉ huy, mười liên hợp thành một hương – có một chỉ huy. Thành lập một hệ thống quân sự địa phương có chỉ huy thống nhất.
[46] Khinh trọng gồm 7 thiên trong Quản tử, là phương pháp quản lý kinh tế do Quản Trọng đề xuất. Muốn hiểu rõ hơn người đọc nên tìm đọc Quản tử, nhưng đại khái đây là phương pháp dùng tiền tệ để quản lý kinh tế đời cổ.
[47] Theo Giả Quỳ, chức này nắm xây cất và thợ thuyền.
[48] Thực ra tên là Hằng 恆, vì kỵ húy Hán Văn Đế Lưu Hằng phải đổi chép Hằng làm Thường 常.
[49] Theo Phục Kiền, Sơn Nhung vào đời Hán là người Tiên ty. Điều này e Phục Kiền võ đoán.

[50] Theo Phục Kiền, Châu Chiêu Vương đi tuần du phương nam, qua sông Hán thuyền đắm, chết đuối. Triều đình nhà Châu kỵ không ra cáo phó, nên chư hầu không rõ nguyên do. Theo Tống Trung, Châu Chiêu Vương dẫn quân đánh Sở, có Tân Do Mỹ làm xa hữu. Khi vượt sông Hán, Chiêu Vương chết đuối, Do Mỹ ráng cứu mà không được. Theo Đỗ Dự, vì vào đời Chiêu Vương, sông Hán không thuộc địa phận nước Sở, nên Sở không nhận tội. Tuy nhiên, theo bằng chứng thu được từ chữ khắc trên đồ đồng đời Châu mới đào gần đây, Châu Chiêu Vương thống lĩnh sáu quân Tây kinh (đồn trú ở Phong, Hạo), đánh Sở, bị thua trận. Chiêu Vương chết, cả sáu cánh quân bị tiêu diệt. Thiệt hại này có tác động lớn, đánh dấu sự suy yếu của quyền lực nhà Châu.
[51] Giao thề giảng hòa.
[52] Ý nói vùng lưu vực Hoài, Tứ.
[53] Công dương: Hội nghị Quỳ khâu, Hoàn Công chấn thế kiêu ngạo, có 9 nước làm phản.

[54] Tả truyện liệt kê: Lỗ Trang Công năm thứ 13, hội quân ở Bắc Hạnh để bình loạn nước Tống. Lỗ Hi Công năm thứ 4, Tề họp quân đánh Thái, rồi đánh Sở. Lỗ Hi Công năm thứ 6, Tề đánh Trịnh, vây Tân thành.
[55] Tả truyện liệt kê: Lỗ Trang Công năm thứ 14, họp ở Quyên; năm thứ 15, lại họp ở Quyên; năm thứ 16, ăn thề ở U; Lỗ Hi Công năm thứ 5, họp ở Thủ chỉ; năm thứ 8, hội thề ở Thao; năm thứ 9, họp ở Quỳ khâu.
[56] Xác định ngôi Thái tử của Châu Tương Vương.
[57] Bồi thần: bề tôi của bề tôi.
[58] Theo Quát địa chí: Mộ của Quản Trọng nằm trên núi Ngưu sơn, phía nam huyện Lâm truy, nối liền với mộ Tề Hoàn Công.
[59] Theo Hàn Phi Tử, nguyên văn câu nói: “Biết tôi không ai bằng vua, biết con không ai bằng cha.”

 

[60] Theo Giả Quỳ, Dịch Nha còn được biết là Ung Vu.
[61] Theo Quản TửHàn Phi Tử, Dịch Nha là người nấu bếp, khi nghe Hoàn Công nói chưa từng được nếm thịt người, bèn về nhà giết con nấu thịt dâng lên Hoàn Công.
[62] Theo Quản Tử, Khai Phương là Thái tử nước Vệ, không kế vị nước Vệ mà chọn làm bề tôi cho Hoàn Công.
[63] Theo Quản TửHàn Phi Tử, Thụ Điêu tự thiến để quản lý nội cung cho Hoàn Công.
[64] Nhan Sư Cổ chép: Quản Trọng có bệnh, Hoàn Công đến thăm hỏi, hỏi: “Tướng quốc có điều gì chỉ dạy Quả nhân?” Quản Trọng đáp: “Nguyện ngài tránh xa Dịch Nha và Thụ Điêu. Hoàn Công hỏi: “Dịch Nha giết con để thỏa lòng Quả nhân, còn gì mà nghi?” Đáp rằng: “Tình con người chẳng ai không thương con mình, hắn đến con còn nỡ giết, thì thương xót gì nhà vua. Hoàn Công hỏi: “Thụ Điêu tự thiến để được thân cận ta, còn gì mà nghi? Đáp rằng: “Tình con người chẳng ai không thương bản thân, hắn đến thân còn nỡ hại, thì thương xót gì nhà vua. Hoàn Công nói: “Vâng. Quản Trọng bèn cho đuổi hết những người ấy, mà Hoàn Công ăn không ngon, dạ không yên 3 năm. Hoàn Công nói: “Trọng Phụ chẳng đã chết rồi ư? Bèn liền cho triệu mời họ về. Năm sau, Hoàn Công mang bệnh, Dịch Nha và Thụ Điêu cùng nhau làm loạn, chặn cổng cung, đắp tường cao, không cho ai ra vào. Có một phụ nữ leo vườn vào gặp Hoàn Công. Hoàn Công nói: “Ta muốn ăn. Đáp: “Chẳng tìm đâu ra. Hoàn Công nói: “Ta muốn uống. Đáp: “Chẳng tìm đâu ra. Hoàn Công hỏi: “Vì sao? Đáp: “Dịch Nha và Thụ Điêu hợp nhau làm loạn; chặn cổng cung, đắp tường cao, không ai được ra vào, nên chẳng tìm đâu ra thức ăn uống. Hoàn Công bùi ngùi thở dài, rơi nước mắt, nói: “Than ôi, tầm nhìn thánh nhân há chẳng xa xôi lắm ư! Nếu người chết biết nhận thức, ta còn mặt mũi nào gặp lại Trọng phụ? Rồi lấy tay áo trùm lên mặt mà chết ở cung Hồ thọ. Thế rồi dòi bọ lúc nhúc đầy phòng, tràn ra đến cánh cửa Dương môn, vì đến sau hai tháng vẫn chưa được chôn.
[65] Nguyên văn “hảo nội”, ý nói là người ham tình dục.
[66] Theo Tả truyện, tên người này là Vô Khuy.
[67] Qua đây có thể hiểu cách gọi đàn bà thời Xuân thu. Vương Cơ là công chúa nhà Châu, họ Cơ. Từ Cơ, Thái Cơ, Vệ Cơ, Trịnh Cơ, Mật Cơ v.v… đều là công chúa của các nước ấy, họ Cơ. Cát Doanh là công chúa nước Cát, họ Doanh. Tống Hoa Tử là con gái nhà Đại phu họ Hoa nước Tống, họ Tử.
[68] Theo Giả Quỳ, Ung Vu chính là Dịch Nha, người ấp Ung, tên Vu, tự Dịch Nha. Giả thuyết này còn nhiều nghi vấn vì không ai biết Giả Quỳ căn cứ vào đâu.
[69] Tức Trưởng Vệ Cơ, Cung là thụy.
[70] Bỏ thây Hoàn Công vào hòm.

[71] Theo Quát địa chí, mộ phần Hoàn Công ở núi Ngưu sơn. Vào khoảng cuối niên hiệu Vĩnh gia đời Tấn, mộ ấy bị người đào bới, lớp đầu có ván che, kế đến bọc một lớp thủy ngân, có hơi độc không vào được. Mấy hôm sau mới dắt chó thả vào, sau đó tìm được vải dệt từ vàng sợi mấy mươi tấm, áo lót làm bằng ngọc trai, cũng như tráp làm bằng ngọc, lụa màu, binh khí nhiều không kể hết. Thêm xác những người bị chôn cùng, hài cốt hỗn độn.
[72] Theo Phục Kiền, Lỗ Hi Công năm thứ 19, chư hầu ăn thề ở Tề để tưởng nhớ ân đức Hoàn Công. Tống Tương Công muốn làm Bá, nên không đến dự, vì thế nên Tề đến đánh.
[73] Theo Tả truyện, Bính Nhung là Bỉnh Xúc, cha bị quật mồ để chặt chân.
[74] Theo Quốc ngữ và Tả truyện, người này là Diêm Chức.
[75] Đi xe đời xưa có 3 vị trí, người đánh xe, hay Ngự xa ngồi giữa, quý nhân ngồi hoặc đứng bên trái, Tham thừa, còn gọi là hữu hay xa hữu ngồi hoặc đứng bên phải. Trong chiến tranh, quý nhân cầm cung bắn, Tham thừa cầm kích làm hộ vệ.

[76] Theo Cốc Lương chú giải, đây là loại người khổng lồ. Chỉ riêng cái thủ cấp khi chở bằng xe, lông mày cao ngang cái dàm.
[77] Theo Giả Quỳ, là Vương tử nhà Châu, làm Đại phu ở Tề.
[78] Thời Xuân thu và Chiến quốc, trên chiến xa có ba người, người đánh xe (Ngự) ngồi giữa, người chỉ huy đứng bên trái, cầm cung, người hộ vệ (Hữu) đứng bên phải, cầm kích. Bàng Sửu Phụ tráo chỗ với Tề Khoảnh Công, nên quân Tấn tưởng Sửu Phụ là Khoảnh Công, nhờ đó Khoảnh Công được thoát.
[79] Theo Tả truyện, Tề đem kỷ nghiễnngọc khánh hối lộ cho Tấn.
[80] Theo Đỗ Dự, Đồng Thúc là tên tự của người cai trị đất Tiêu, Tử là con gái, gọi trệch như thế để kỵ húy. Theo Giả Quỳ, Tiêu là nước phụ dung, mang họ Tử (cùng họ với vua Tống). Giải thích của Giả Quỳ có lý hơn theo cách gọi các bà quý phụ đương thời.
[81] Theo lời chú thích của Nienhauser, theo truyền thống, đất đai được quy hoạch theo hướng nam-bắc. Quy hoạch theo hướng đông-tây, tức đường đi, đê ngòi chạy theo hướng đông tây, tạo điều kiện dễ dàng cho quân Tấn tiến đánh Tề.

[82] Tả truyện chép: Quân Tấn đến Tề, sai Tề trả cho Lỗ ruộng rất ở Vấn dương.
[83] Tề sau khi thua Tấn, thế yếu, nên Khoảnh Công vừa phải mua chuộc lòng dân vừa phải mua chuộc chư hầu để giữ vững ngôi vị.
[84] Theo sách Hoàng lãm, mộ phần Khoảnh Công nằm gần mộ phần Lữ Thượng.
[85] Tức Tuân Yển. Ông nội Tuân Yển là Tuân Lâm Phụ làm chức Trung hàng, sau đổi chi họ làm Trung hàng.
[86] Vì nhiều lần cùng chư hầu hợp binh và hội thề.
[87] Nhiều sách chép là Sính.

[88] Theo Phục Kiền, Trang Công cho rằng người vợ không biết mình đang đứng ngoài cửa, nên hát để đánh tiếng. Có thuyết khác nói Trang Công biết mình bị lừa, sợ không thoát được, nên hát lời ăn năn.
[89] Ý nói Trang Công chết vì ham muốn riêng tư, chẳng ai sẽ vì ông ta trả thù.
[90] Nhiều nguồn chép là Trứ Cữu.
[91] Theo Tả truyện, Thành vì có dị tật nên bị phế
[92] Tả truyện chép lời Thành và Cường báo với Khánh Phong: “Phu tử chúng tôi thế nào ngài cũng đã biết, chỉ có Vô Cữu và Yển theo hầu một bên, anh em trong nhà chẳng ai được gặp. Sợ chúng hại Phu tử, nên mạo muội đến báo. Khánh Phong nói: “Nếu có ích cho Phu tử, ắt phải trừ chúng đi, nếu khó thì ta sẽ giúp các ngươi. Bèn giết Đông quách Yển và Đường Vô Cữu nơi chính đường nhà họ Thôi. Thôi Trữ và vợ đều treo cổ tự sát, Thôi Minh trốn sang Lỗ.

[93] Theo Phục Kiền, Khánh Xá là con trai của Khánh Phong, được Phong truyền giao trách nhiệm.
[94] Theo Giả Quỳ, 25 gia đình là một xã, 1.000 xã là 25.000 gia đình.
[95] Điền Thành Tử Thường.

[96] Theo Đỗ Dự, Quốc Huệ Tử tên họ là Quốc Hạ, Cao Chiêu Tử tên họ là Cao Trương.
[97] Theo Giả Quỳ, Yến Ngữ là con Yến Anh.
[98] Theo Đỗ Dự, Phường Hầu là chú của Khang Tử.

[99] Ưởng được chọn làm đánh xe, nên còn gọi là Ngự Ưởng, là Đại phu nước Tề, cũng thuộc dòng họ Điền. Trần Hoàn Tử Vô Vũ sinh con là Vỉ, Vỉ sinh con là Hiến, Hiến sinh ra Ưởng.

[100] Hám Chỉ.
[101] Điền Nghịch là Tử Hành.
[102] Vốn họ Trần (ông tổ Trần Hoàn là con Trần Linh Công), đến Tề mới trở thành họ Điền. Theo Phục Kiền, Tử Ngã thấy Điền Nghịch sống sót thoát được, sợ bị họ Trần oán hận, nên cố đến ăn thề với họ để giảng hòa.
[103] Ở trong cung để đề phòng và thám thính.
[104] Theo Phục Kiền, anh em Thành Tử gồm 8 người, hai người một xe. Thuyết này còn nhiều nghi vấn. Hệ bản chép Điền Hi Tử Khất sinh ra Thành Tử Thường, Giản Tử Xỉ, Tuyên Tử Kỳ Di, Mục Tử An, Lẫm khâu Tử Thượng Y, Tư Tử Mang Doanh, Huệ Tử Đắc, gồm 7 người. Đỗ Dự sung thêm Chiêu Tử Trang cho đủ 8 người. Xét theo Hệ bản, Chiêu Tử là con của Hoàn Tử, là chú của Thành Tử, lại chẳng phải tên Trang, ráng buộc cho đúng số bốn xe tám người. Điền Hoàn thế gia chép rằng anh em Điền Thường bốn người đến cung Giản Công, phù hợp với sự kiện đã kể trên. Ở đây chỉ nói bốn cỗ xe, chẳng nói số người, thì đủ biết bốn người ngồi bốn xe vào cung, chẳng phải hai người một xe.
[105] Theo Phục Kiền, Tử Ngã ra đón, anh em Thành Tử đột ngột xông vào, rồi đóng trái cửa, Tử Ngã chẳng thể vào lại.
[106] Ý nói mọi người tham gia đảo chính đều họ Điền. Nếu Điền Thành Tử bỏ trốn thì phải giết Thành Tử để gột tội cho họ Điền.

[107] Theo Phục Kiền, Tử Phương là người thuộc phe Tử Ngã, là Đại phu Đông quách Giả.
[108] Tả truyện chép: Đông quách Giả trốn sang Vệ.

 

Sử ký, Quyển 31 — Ngô Thái Bá thế gia

Lời giới thiệu từ người dịch:

Ngô Thái Bá thế gia là thiên đầu tiên trong các thiên Thế gia của Sử ký. Tư mã Thiên đặt thiên này làm đầu dựa trên truyền thuyết Ngô Thái Bá, người sáng lập nước Ngô, là con trưởng của Châu Thái Vương, tức Cổ Công Đản Phụ, tức người sáng lập nhà Châu tại Châu nguyên, Kỳ sơn. Thiên Thế gia này có thể được chia làm bốn phần chính: Phần thứ nhất là huyền thoại về nguồn gốc của gia tộc cai trị đất Ngô; phần thứ hai về thời điểm Ngô trở thành vương quốc, và sự du nhập ảnh hưởng văn hóa Hoa hạ dưới triều Thọ Mộng, điển hình là chuyến tham quan các nước vùng Trung nguyên của Quý Trát, tức Diên lăng Quý Tử; phần thứ ba về sự tranh chấp vương vị giữa dòng trưởng và dòng thứ ba sau khi Quý Trát từ chối ngôi vua; phần cuối về thời kỳ vàng son nhất, và tiếp đó là sự sụp đổ của nước Ngô dưới hai triều đại: Ngô Vương Hạp Lư và Ngô Vương Phù Sai.

Ngô là phần đất phía nam sông Trường giang, giữa Thái hồ và biển. Đến nay, thổ ngữ vùng Thượng hải vẫn được gọi là tiếng Ngô. Lịch sử của Ngô từ giai đoạn sơ khai đến khi thành lập hệ thống thống trị thế nào vẫn rất mờ mịt. Khoảng cách từ khi Ngô bị Việt diệt đến khi Tư mã Đàm và Tư mã Thiên viết Sử ký đến gần 400 năm, cách xa thời điểm Ngô Thái Bá giả định đã trốn đến Ngô cả ngàn năm. Không ai rõ hai vị ấy đã dựa lên nguồn tài liệu nào, khả năng là dựa theo lời truyền miệng. Nếu là truyện truyền miệng, thì là truyện khá phổ biến, hoặc đã trở thành phổ biến, vì vào đời Đông Hán, Triệu Diệp viết lại Ngô Việt Xuân thu, nội dung không khác Ngô Thái Bá thế gia, trừ tên gọi một hai vị vua ở thời kỳ đầu. Khoảng cách từ Kỳ sơn đến Thái hồ xa đến 2.000 km, chưa kể đó là thời kỳ đường xá, phương tiện giao thông không có, và giữa hai nơi nhiều núi non, rừng rú, sông đầm, mãnh thú chướng ngại, nếu đông người thì quá trình chậm, chồng chất thêm khó khăn về lương thực, bệnh tật, ít người thì liệu được bao nhiêu cơ may sống sót; đến nơi khác ngôn ngữ, tập tục với người bản địa, hội nhập chưa chắc đã dễ nói gì đến được người ta đội lên đầu tôn làm vua; chưa nói Thái Bá và Trọng Ung phải đi xa đến như thế chỉ để tránh Quý Lịch là điều phi lý. Kinh trong Kinh man là địa phận Giang lăng, tức Dĩnh – kinh đô nước Sở xưa, Giang lăng cách xa Thái hồ đến cả ngàn km. Khả năng Thái Bá và Trọng Ung đã trốn đến Ngô gần như không tưởng.

king-of-wu-state-sword

Kiếm của Ngô Vương Quang (Hạp Lư)

Về phía khảo cổ, năm 1954, người ta đào được huyệt của Nghi Hầu Thỉ tại Đan đồ, người này được xác nhận cũng chính là Châu Chương, người theo Sử ký là chắt của Trọng Ung. Điều này đã mở ra một số giả định khác về nguồn gốc gia đình cai trị nước Ngô, gồm: Châu Chương, có thể là con cháu của Trọng Ung, được phong ở Đan đồ vào đời Võ Vương, nơi này ở gần Ngô nên bị đời sau ngộ nhận thành tổ tiên gia tộc cai trị Ngô; hoặc con cháu Châu Chương bị ‘man di hóa’ và đã dời đến Cô tô?


Ngô Thái thế gia, Sử ký quyển 31


 

Ngô Thái [1] và em là Trọng Ung đều là con của Châu Thái Vương, và là anh của Vương Quý Lịch. Vì Quý Lịch hiền, lại có người con với thánh tài là Xương, nên Thái Vương muốn lập Quý Lịch làm đích nhằm truyền ngôi cho Xương. Thế rồi Thái Trọng Ung hai người cùng nhau trốn đến vùng người Kinh man, xăm trổ thân thể và cắt ngắn tóc tỏ ra thân thể hết còn hữu dụng để lánh Quý Lịch[2]. Quý Lịch rốt cuộc nối ngôi Châu, tức Vương Quý, rồi đến Xương tức Văn Vương. Thái chạy đến vùng Kinh man, tự xưng là Câu Ngô. Được người ở đấy mến nghĩa, theo quy phục đến hơn ngàn nhà, tôn làm Ngô Thái .

27178

Ngô Thái Bá (tranh đời Thanh)

Thái chết, không con, em là Trọng Ung kế vị, tức Ngô Trọng Ung. Trọng Ung chết, con là Quý Giản kế vị. Quý Giản chết, con là Thúc Đạt kế vị. Thúc Đạt chết, con là Châu Chương kế vị. Lúc ấy, Châu Võ Vương đánh đổ nhà Ân, cho tìm kiếm con cháu của Thái Trọng Ung, tìm ra Châu Chương. Vì Châu Chương đã là chủ đất Ngô, nhân tiện phong cho Châu Chương ở đấy; lại phong cho em Châu Chương tại đất cũ nhà Hạ ở mặt bắc lãnh thổ nhà Châu, tức Ngu Trọng, đứng trong hàng chư hầu[3].

Châu Chương chết, con là Hùng Toại lên thay; Hùng Toại chết, con là Kha Tương lên thay; Kha Tương chết, con là Cường Cưu Di lên thay; Cường Cưu Di chết, con là Dư Kiều Nghi Ngô lên thay; Dư Kiều Nghi Ngô chết, con là Kha Lô lên thay; Kha Lô chết, con là Châu Diêu lên thay; Châu Diêu chết, con là Khuất Vũ lên thay; Khuất Vũ chết, con là Di Ngô lên thay; Di Ngô chết, con là Cầm Xử lên thay; Cầm Xử chết, con là Chuyển lên thay; Chuyển chết, con là Pha Cao lên thay; Pha Cao chết, con là Cú Ti lên thay – nhằm vào lúc Tấn Hiến Công diệt nước Ngu, để mở  đường đánh Quắc; Cú Ti chết, con là Khứ Tề lên thay; Khứ Tề chết, con là Thọ Mộng  lên thay. Thọ Mộng lên ngôi thì Ngô bắt đầu lớn mạnh, xưng vương.

Từ khi Thái lập ra nước Ngô, được 5 đời thì Võ Vương diệt Ân, phong con cháu Thái hai người làm chư hầu: một là Ngu, tại Trung thổ; một là Ngô, ở nơi man di. Được 12 đời thì Tấn diệt Ngu ở Trung thổ. Ngu ở Trung thổ bị diệt được 2 đời thì Ngô ở man di hưng thịnh. Tổng cộng từ Thái đến Thọ Mộng gồm 19 đời.

Ngô Vương Thọ Mộng năm thứ 2, Đại phu nước Sở là Thân Công Vu Thần vì oán Sở Tướng quốc Tử Phản nên bỏ Sở trốn sang Tấn, rồi từ Tấn đi sứ sang Ngô, huấn luyện người Ngô cách dùng binh khí và chiến xa, còn sai con mình làm Hành nhân cho Ngô. Ngô từ đó bắt đầu có liên lạc với các nước Trung nguyên. Thế rồi Ngô đánh Sở. Năm thứ 16, Sở Cung Vương đánh Ngô, tiến đến Hành sơn.

Năm thứ 25, Ngô Vương Thọ Mộng chết. Thọ Mộng có 4 con trai, trưởng là Chư Phàn, kế là Dư Tế, rồi đến Dư Mạt, rồi đến Quý Trát. Quý Trát hiền năng, Thọ Mộng muốn lập làm người kế vị, nhưng Quý Trát nhường mãi không chịu nhận, bèn lập con trưởng là Chư Phàn tạm thay trị nước.

Ngô Vương Chư Phàn năm thứ nhất, Chư Phàn sau khi mãn tang, nhường ngôi cho Quý Trát. Quý Trát từ chối, nói rằng: “Khi Tào Tuyên Công khứ thế, cả chư hầu lẫn người Tào đều cho vua Tào hiện nay là bất nghĩa và muốn lập Tử Tang. Tử Tang bỏ trốn, nhờ thế vua Tào hiện nay mới trở thành vua; còn Tử Tang được người quân tử khen là ‘biết thủ tiết’. Nhà vua đã ở vị đích tự, sao còn ai dám mạo muội phá lệ! Làm vua không hợp với cái tiết của Trát. Trát tuy bất tài, nguyện noi theo cái nghĩa của Tử Tang.” Ngô vẫn cố lập Quý Trát, Quý Trát bèn trốn ra ở nơi đồng hoang cày cấy qua ngày, việc ấy mới thôi. Mùa thu, Ngô đánh Sở, nhưng bị quân Sở đánh bại. Năm thứ 4, Tấn Bình Công lên ngôi.

Năm thứ 13, Ngô Vương Chư Phàn chết. Để di mệnh truyền ngôi cho Dư Tế, muốn anh em theo thứ tự truyền tiếp cho nhau để đến lượt Quý Trát mới thôi, thực thi ý định của Thọ Mộng. Hơn thế, Quý Trát trọng tiết nghĩa, anh em ai cũng muốn truyền nước cho, theo cách ấy thì lần lượt đến phiên Quý Trát. Quý Trát được phong ở Diên lăng, nên có hiệu là Diên lăng Quý Tử.

Ngô Vương Dư Tế năm thứ 3, Tướng quốc nước Tề là Khánh Phong phạm tội, từ Tề chạy sang Ngô. Ngô cấp Khánh Phong huyện Chu phương để ăn lộc, còn gả con gái cho Phong làm vợ, Phong giàu có còn hơn cả  khi ở Tề.

Năm thứ 4, Ngô sai Quý Trát đi thăm viếng Lỗ[4]. Quý Trát xin mục kiến Châu nhạc. Khi được trình diễn điệu Châu nam, Thiệu nam, Quý Trát nói: “Hay quá! Như nền móng mới lập, tuy chưa hoàn mỹ, nhưng giọng điệu nồng ấm không giận dữ.” Đến các ca khúc đất Bội, Dong, Vệ, Quý Trát nói: “Hay quá! Sâu sắc quá! Tuy âu lo mà không tuyệt vọng. Ta nghe đức độ của Vệ Khang Thúc, Vệ Võ Công vốn là thế này; đây chẳng đúng là phong cách đất Vệ đấy ư?” Đến ca khúc đất nhà Châu, Quý Trát nói: “Hay quá! Trầm tư mà không sợ hãi, như sự nhà Châu đông thiên đấy chăng?” Đến ca khúc đất Trịnh, Quý Trát nói: “Phức tạp quá! Dân chẳng kham được, nước này rồi sẽ mất trước tiên chăng?” Đến ca khúc đất Tề, Quý Trát nói: “Hay quá! Phong thái mới mênh mông, đồ sộ làm sao! Rào chắn bể đông chẳng là Thái Công đấy ư? Giới hạn nước ấy thế nào vẫn chưa lường được.” Đến ca khúc đất Bân, Quý Trát nói: “Hay quá! Thảnh thơi lắm thay, đạt ý mà không phóng túng, như sự Châu Công sang đông chăng?” Đến ca khúc đất Tần, Quý Trát nói: “Đó chính là âm thanh nhà Hạ. Đã Hạ thì phải lớn, và lớn đến cực cùng, có phải là từ đất cũ nhà Châu đấy chăng?” Đến ca khúc đất Ngụy, Quý Trát nói: “Hay quá! Bềnh bồng lơ lửng, lớn mà du dương, đơn giản mà biến hóa, nếu được đức trợ phần, ắt trở thành minh chủ.” Đến ca khúc đất Đường, Quý Trát nói: “Ý nghĩa sâu sắc lắm thay, chẳng phải phong thái Đào Đường để lại đấy ư? Nếu không, suy nghĩ gì mà thâm thúy thế? Nếu chẳng phải hậu sinh của bậc đại đức, còn ai làm được như thế!” Đến ca khúc đất Trần, Quý Trát nói: “Nước không chủ, sao giữ được dài lâu?” Từ ca khúc đất Cối trở xuống, Quý Trát chẳng đánh giá gì nữa. Đến ca khúc Tiểu nhã, Quý Trát nói: “Hay quá! Châu toàn mà không giả dối, ai oán mà không hiện ngôn, chẳng là về đức nhà Châu đang suy đấy ư? Nhưng vẫn có dân cũ của Tiên vương sót lại” Đến ca khúc Đại nhã, Quý Trát nói: “Bao quát thay, rộn ràng thay, chiết khúc mà thẳng thắn, chẳng là về đức độ Văn Vương đấy ư?” Đến bài Tụng, Quý Trát nói: “Tuyệt quá! Kéo mà không căng, uốn mà không gảy, gần mà không ngợp, xa mà không nhạt, biến hóa mà không lộng, trùng lập mà không nhàm, bi thương mà không sầu ám, vui sướng mà không bừa bãi, hiệu lực mà không khô khan, bao quát mà không tẻ nhạt, rộng rãi mà không hoang phí, bao gồm mà không tham lam, tĩnh mà không ứ đọng, động mà không phân tán. Ngũ thanh hài hòa, bát phong bình ổn, nhịp có tiết độ, điệu có trật thứ. Phải đồng hàng với hạng chí đức.” Xem điệu múa Tượng sócNam dược, Quý Trát nói: “Đẹp lắm! nhưng còn điều đáng ăn năn.” Xem điệu Đại võ, Quý Trát nói: “Đẹp lắm! Nhà Châu khi cực thịnh, chẳng tựa như thế chăng?” Xem điệu Thiều hộ, Quý Trát nói: “À, thánh nhân vĩ đại! Cứ băn khoăn đức mình không toàn mỹ, là điều nan trải của thánh nhân vậy!” Xem điệu Đại Hạ, Quý Trát nói: “Đẹp lắm! Cần kiệm nhưng không khoe đó là phẩm hạnh! Nếu chẳng phải Vũ thì còn ai sánh được?” Xem điệu Chiêu sao, Quý Trát nói: “Chí đức là đây! Vĩ đại quá, như trời chẳng gì không bao trùm, như đất chẳng gì không nâng đỡ, đức đã thậm thịnh, chẳng thể thêm thắt gì hơn. Xin thôi tại đây, nếu còn nhạc gì khác tôi cũng không dám xem.

Quý Trát rời Lỗ, làm sứ giả đến Tề. Khuyên Yến Bình Trọng rằng: “Ông hãy mau mau hoàn trả trị ấp và quyền hành. Hết ấp hết quyền, mới thoát được họa. Chính sự nước Tề sẽ phải có chủ; khi chưa có chủ, họa hoạn sẽ mãi chưa thôi.” Vì thế, Yến Tử thông qua Trần Hoàn Tử giao trả quyền chính và trị ấp, nhờ đó tránh được cái họa Loan, Cao.

Rời Tề, Quý Trát đi sứ sang Trịnh. Gặp Tử Sản, hai người đối đãi nhau như bạn cũ. Quý Trát bảo Tử Sản rằng: “Chính sách nước Trịnh quá ư hoang phí, họa rồi sẽ đến, chính sự ắt vào tay ông. Ông nắm chính sự, làm cho thận trọng hợp lễ. Bằng không, nước Trịnh sẽ sụp đổ.” Rời Trịnh, Quý Trát đến Vệ, nói với Cừ Viện, Sử Cẩu, Sử Thu, Công tử Kinh, Công thúc Phát, Công tử Triêu rằng: “Nước Vệ còn nhiều vị quân tử, chưa gì phải lo.

Từ Vệ đến Tấn, Quý Trát khi sắp nghỉ đêm ở ấp Thích, nghe tiếng chuông, mới nói rằng: “Lạ lùng quá! Cái ta nghe, hùng hồn nhưng ít đức, ắt sẽ sắp nảy sinh sự tru lục. Phu tử[5] vì mang tội với vua mình mới phải ở đây, kinh hãi cuống cuồng sợ còn chưa đủ lại có thể còn hưởng thụ ư? Phu tử mà ở nơi này, tựa như én xây tổ nơi màn trướng. Nhà vua đang nằm trong hòm mà có thể thụ hưởng được ư?” Rồi bèn bỏ đi. Tôn Văn Tử nghe thấy, từ đó đến trọn đời không nghe đàn hát.

Đến Tấn, Quý Trát nói với Triệu Văn Tử, Hàn Tuyên Tử, Ngụy Hiến Tử rằng: “Nước Tấn rồi sẽ vào tay gia tộc ba ông!” Lúc sắp đi, Quý Trát bảo Thúc Hướng rằng: “Đức ngài tôi ơi, phải gắng gõi thôi. Vua trên hoang đàn, tôi dưới đa tài, các Đại phu ai cũng lắm của, chính sự rồi sẽ lọt vào tay ba gia tộc.  Ngài chính trực, nhưng phải liệu cách nào tránh họa.

Quý Trát khi bắt đầu lên đường đi sứ, đi ngang đất của vua Từ. Vua Từ mê thanh kiếm của Quý Trát, nhưng không dám ngỏ lời. Quý Trát biết rõ tâm địa, nhưng vì còn phải đi sứ sang các nước khác, nên chưa tặng. Trên đường về đến đất Từ, thì vua Từ đã chết, thế là Quý Trát cởi bảo kiếm treo lên cành cây nơi mộ vua Từ rồi đi. Tùy tòng hỏi: “Vua Từ đã mất, còn tặng mà làm gì?” Quý Tử đáp: “Không phải thế. Từ đầu lòng ta đã hứa tặng, há vì ông ta đã chết mà ta bội với lòng mình ư?

Quy Trat treo guom

Quý Trát tặng gươm

Năm thứ 7, Công tử Vi nước Sở giết Sở Vương Giáp Ngao rồi lên thay, tức Sở Linh Vương. Năm thứ 10, Sở Linh Vương họp chư hầu để đánh đất Chu phương của Ngô để giết Khánh Phong. Ngô cũng đánh Sở, chiếm 3 ấp rồi lui. Năm thứ 11, Sở đánh Ngô, tiến đến Vu lâu. Năm thứ 12, Sở lại đánh Ngô, đóng ở Kiền khê. Quân Sở thua trận rút chạy.

Năm thứ 17, Ngô Vương Dư Tế chết, em là Dư Mạt lên ngôi.

Ngô Vương Dư Mạt năm thứ 2, Công tử Khí Tật nước Sở giết vua là Linh Vương và lên thay.

Năm thứ 4, Ngô Vương Dư Mạt chết, muốn truyền ngôi cho em là Quý Trát. Quý Trát không nhận, bỏ trốn. Quốc nhân nước Ngô nói: “Tiên vương có mệnh truyền, anh mất thì em lên thay, để Quý Tử có lượt. Quý Tử nếu như tránh ngôi, thì con cháu của vua Dư Mạt nên lên thay. Vua Dư Mạt vừa mất, con trai nhà vua đáng kế vị.” Bèn tôn con trai của Dư Mạt là Liêu lên làm vua.

Ngô Vương Liêu năm thứ 2, Công tử Quang đánh Sở, đã thất trận còn để mất vương chu[6]. Quang sợ, định mưu tập kích, đoạt lại chiến thuyền rồi quay về.

Năm thứ 5, vong thần nước Sở là Ngũ Tử Tư trốn đến Ngô, được Công tử Quang nuôi làm khách. Công tử Quang là con trai của Ngô Vương Chư Phàn, thường cho rằng cha mình anh em bốn người truyền ngôi cho nhau là để Quý Trát có phiên.  Quý Trát không nhận, mà Chư Phàn là anh cả, thì theo lẽ phải đến lượt Quang. Bèn ngấm ngầm chiêu nạp hiền sĩ để lén đánh Ngô Vương Liêu.

Năm thứ 8, Ngô sai Công tử Quang đánh Sở. Công tử Quang đánh bại quân Sở, cho đón mẹ của cố Thái tử Kiến nước Sở ở Cư sào rồi rút về. Nhân đấy bắc phạt, đánh bại quân Trần và Thái. Năm thứ 9, Công tử Quang đánh Sở, hạ Cư sào và Chung ly. Vốn là, xử nữ nhà Ti lương thuộc biên ấp nước Sở tranh dành dâu với gái thuộc biên ấp nước Ngô, gia quyến hai nhà nổi giận giết nhau, ấp trưởng hai bên hay tin cũng nổi giận, đánh nhau, biên ấp nước Ngô bị diệt. Ngô Vương nổi giận, bèn đánh Sở, chiếm hai thành rồi lui.

newsmedia_2518-1

Ngũ Viên

Ngũ Tử Tư khi mới trốn sang Ngô, thuyết phục Ngô Vương Liêu đánh Sở kiếm lợi. Công tử Quang nói: “Cha anh của Tư bị Sở tru lục, nên muốn báo thù đấy thôi. Chẳng thấy lợi lộc ở đâu.” Thế là Ngũ Viên biết Quang nuôi chí khác. Bèn tìm được dũng sĩ là Chuyên Chư, đem giới thiệu với Quang. Quang mừng lắm, nuôi Ngũ Tử Tư làm khách. Tử Tư lui ra ở ngoài đồng làm việc cày cấy, đợi kết quả Chuyên Chư hành sự.

Năm thứ 12, mùa đông, Sở Bình Vương chết. Năm thứ 13, mùa xuân, Ngô muốn tấn công nhân khi Sở đang có tang, phái hai Công tử Cái Dư và Chúc Dong cầm quân đánh Sở tại đất Lục và đất Tiềm. Và sai Quý Trát đến Tấn để theo dõi động tĩnh của các nước chư hầu. Sở cất quân chặn đường về của quân Ngô,  quân Ngô không thể rút lui. Thế là Công tử Quang nói: “Cơ hội này chẳng thể để mất.” Và báo với Chuyên Chư rằng: “Nếu không ra tay thì sẽ chẳng lọt vào tay! Ta là con dòng đích, đáng ra được nối ngôi; ta muốn làm điều đó thành sự đã rồi. Quý Tử dẫu có quay về cũng chẳng phế được ta.” Chuyên Chư nói: “Ngô Vương Liêu khả sát. Hắn mẹ già con thơ, còn hai Công tử cầm quân đánh Sở thì bị chặn đứt đường về. Đây là lúc họ bên ngoài đang khốn với Sở, bên trong chẳng còn tôi thần nào cốt ngạnh, thì còn làm gì được ta.” Quang nói: “Sinh mệnh ta, cũng là sinh mệnh ngươi.” Tháng 4 ngày bính tí, Quang mai phục tráng sĩ trong quật thất và mời Ngô Vương Liêu đến dự tiệc rượu. Ngô Vương Liêu dàn quân đầy đường rồi mới xuất hành từ vương cung đến nhà Quang. Suốt từ cổng lên đến bờ thềm, toàn người thân cận của Ngô Vương, ai nấy hoặc đeo, hoặc vác kiếm nhọn. Công tử Quang vờ đau chân, lui vào quật thất, sai Chuyên Chư giấu chủy thủ trong con cá nướng mang dâng, rồi rút chủy thủ đâm Ngô Vương Liêu, Chuyên Chư bị kiếm đâm thấu ngực, nhưng vẫn giết được Ngô Vương Liêu. Công tử Quang thế là được tôn làm vương, tức Ngô Vương Hạp Lư. Hạp Lư bèn phong con trai của Chuyên Chư làm khanh.

1-15061610220ou

Chuyên Chư thí Ngô Vương Liêu, tranh khắc đời Hán

Quý Tử về đến kinh sư, nói: “Nếu như Tiên quân vẫn được thờ cúng, dân chúng vẫn được chăm lo, xã tắc được phụng thờ, thì vẫn là vua của ta. Ta sao dám oán? Khóc kẻ chết, thờ kẻ sống, để đợi trời báo mệnh. Nếu loạn chẳng do ta sinh ra, tuân phục người nào giữ ngôi là đạo của tổ tiên vậy.” Bèn đến mộ Ngô Vương Liêu phục mệnh và khóc.  Quý Trát sau đó quay về giữ chức cũ đợi lệnh. Hai Công tử Chúc Dong và Cái Dư bị bao vây ở Sở, hay tin Công tử Quang giết Ngô Vương Liêu đoạt ngôi, bèn đem quân hàng Sở, được Sở phong ở đất Thư.

Ngô Vương Hạp Lư năm thứ nhất, Hạp Lư thăng Ngũ Tử Tư làm Hành nhân để cùng bàn tính việc nước. Sở giết Bá Châu Lê, cháu nội Châu Lê là Bá Phĩ trốn sang Ngô, được Ngô dùng làm Đại phu.

Năm thứ 3, Ngô Vương Hạp Lư cùng Ngũ Tử Tư và Bá Phĩ đánh hạ đất Thư, giết hai Công tử lưu vong người Ngô. Quang mưu tính tiến quân vào Dĩnh, Tướng quân Tôn Võ nói: “Dân đang mệt mỏi, việc ấy chưa được, hãy đợi đã.” Năm thứ 4, Ngô đánh Sở, chiếm đất Lục và đất Tiềm. Năm thứ 5, Ngô tấn công Việt, đánh bại Việt. Năm thứ 6, Sở phái Tử Thường, Nang Ngõa đánh Ngô, bị Ngô đón chặn, đánh quân Sở đại bại ở Dự chương, chiếm đất Cư sào của Sở rồi rút về.

002

Tôn Võ luyện quân

Năm thứ 9, Ngô Vương Hạp Lư bảo Ngũ Tử Tư và Tôn Võ rằng: “Trước đây ông nói Dĩnh chưa thể chiếm còn nay thì thế nào?” Hai người đáp: “Tướng Sở Tử Thường tham tàn, bị cả Đường lẫn Thái oán ghét. Nhà vua nếu nhất quyết dốc sức đánh Sở, phải có Đường, Thái hỗ trợ mới xong.” Hạp Lư nghe lời, khởi hết binh đội trong nước cùng Đường, Thái đánh Sở, tiến quân đến sông Hán thủy. Sở cũng cất quân chống cự, kéo đến sát bên bờ sông giàn trận. Em của Ngô Vương Hạp Lư là Phù Khái muốn đánh, Hạp Lư không cho, Phù Khái nói: “Nhà vua đã giao phó quân cho thần, binh sự trọng nhất ở lợi thế, còn chần chừ gì nữa?” Bèn dẫn bộ ngũ của mình 5.000 người đánh thẳng vào trận Sở, quân Sở thua to bỏ chạy. Ngô Vương bèn tung quân đuổi theo. Gần đến Dĩnh, giao chiến 5 lần, quân Sở thua cả 5. Sở Chiêu Vương bỏ Dĩnh trốn đến Vân. Em trai Vân Công muốn giết Chiêu Vương, Chiêu Vương bèn cùng Vân Công chạy đến Tùy. Quân Ngô thế rồi tiến vào Dĩnh. Tử Tư cùng Bá Phĩ lấy roi quật thây Sở Bình Vương báo thù cha.

Năm thứ 10 mùa xuân, Việt nghe Ngô Vương đang ở Dĩnh, nước bỏ trống, bèn đánh Ngô. Ngô điều một cánh quân đánh Việt. Sở cấp báo với Tần, Tần điều quân đánh Ngô cứu Sở, quân Ngô thua trận. Em của Hạp Lư là Phù Khái thấy Tần, Việt cùng nhau đánh bại Ngô, còn Ngô Vương cứ mãi ở Sở không về, Phù Khái bèn trốn về Ngô tự lập làm Ngô Vương. Hạp Lư được tin, dẫn quân về đánh Phù Khái. Phù Khái thua trận trốn sang Sở. Sở Chiêu Vương đến tháng 9 mới về lại được Dĩnh, bèn phong Phù Khái đất Đường khê, lập ra họ Đường khê. Năm thứ 11, Ngô Vương phái Thái tử Phù Sai đánh Sở, chiếm đất Phiên. Sở sợ bèn bỏ Dĩnh dời đô đến đất Nhược.

Năm thứ 15, Khổng Tử coi việc nước Lỗ.

Năm thứ 19, mùa hạ, Ngô đánh Việt, Việt Vương Câu Tiễn đón đánh ở Tuy lý. Việt sai tử sĩ ra khiêu chiến, họ xếp thành ba hàng giáp đến gần quân Ngô, gào to, rồi đâm cổ tự sát. Quân Ngô ngây mình đứng xem, Việt nhân dịp tấn công, truy đánh quân Ngô đến Cô tô, Ngô Vương Hạp Lư bị thương ở chân, quân Ngô phải lui về 7 dặm. Ngô Vương lâm bệnh từ vết thương mà chết. Hạp Lư truyền lệnh lập Phù Sai kế vị, bảo Phù Sai rằng: “Mày lại quên việc Câu Tiễn giết cha mày ư?” Đáp rằng: “Không dám.” Ba năm sau, Phù Sai báo thù Việt.

Ngô Vương Phù Sai năm thứ nhất, dùng Đại phu Bá Phĩ làm Thái tể, luyện cung tên tập đánh trận, đăm đăm nuôi chí báo thù. Năm thứ 2, Ngô Vương khởi hết tinh binh đánh Việt, đánh bại Việt ở Phu tiêu, báo cái thù ở Cô tô. Việt Vương Câu Tiễn bèn đem 5.000 giáp binh đóng đồn ở Cối kê, và sai Đại phu Chủng nhờ Thái tể Phĩ xin cho mình dâng nước làm bề tôi. Ngô Vương muốn nhận lời, Ngũ Tử Tư can rằng: “Ngày xưa, nhà Hữu qua giết Châm Quán, đánh Châm Tầm, diệt dòng dõi nhà Hạ là Đế Tương. Vợ Đế Tương là Hậu Mân đang có thai, trốn đến nước Hữu nhưng và sinh ra Thiếu Khang. Thiếu Khang trở thành Mục chính của Hữu nhưng. Hữu qua lại muốn giết Thiếu Khang, Thiếu Khang trốn đến Hữu ngu. Hữu ngu nhớ ân nhà Hạ, gả hai con gái làm vợ và tặng đất Luân làm thái ấp cho Thiếu Khang. Đất tuy chỉ một thành, quân tuy chỉ một lữ, thế nhưng sau này dần dần thu thập tàn dân nhà Hạ, phủ dụ các quan chức. Sai người hiểu dụ, thế rồi diệt nhà Hữu qua, khôi phục cơ nghiệp Đại Vũ, nối tục tế tự nhà Hạ cùng trời đất, chẳng mất mát thứ gì từng có. Hiện nay, Ngô chẳng mạnh bằng Hữu qua, Câu Tiễn lại già giặn hơn Thiếu Khang. Nếu không nhân cơ hội này tiêu diệt, lại khoan dung, há rồi sẽ chẳng sinh họa ư? Hơn nữa, Câu Tiễn là người chịu được khổ cực, nay nếu không diệt, sau ắt hối.” Ngô Vương không nghe, mà nghe lời Thái tể Phĩ, cuối cùng hòa giải với Việt, cùng nhau ăn thề rồi bãi binh rút về.

Năm thứ 7, Ngô Vương Phù Sai nghe tin Tề Cảnh Công chết, các đại thần tranh giành quyền sủng, vua mới còn yếu hèn, bèn cất quân đánh Tề. Tử Tư can rằng: “Việt Vương Câu Tiễn ăn không hai món, mặc không hai lớp, điếu người chết chăm người đau, hẳn rồi sẽ gây họa cho Ngô. Nay Việt là căn bệnh tim gan mà nhà vua không lưu ý, chỉ lo về Tề, chẳng là xằng bậy lắm sao!” Ngô Vương không nghe, bèn đánh Tề, đánh bại quân Tề ở Ngải lăng. Đến đất Tăng, cho mời Lỗ Ai Công đến gặp và đòi cỗ bách lao, Quý Khang Tử sai Tử Cống dùng Châu lễ biện thuyết với Thái tể Phĩ, việc ấy mới thôi. Phù Sai nhân tiện ở lại đánh chiếm đất đai ở phía nam Tề và Lỗ. Năm thứ 9, Ngô giúp Chu đánh Lỗ. Đến nơi, ăn thề với Lỗ rồi rút về. Năm thứ 10, Ngô nhân dịp đánh Tề rút về. Năm thứ 11, Ngô lại đánh Tề.

Việt Vương Câu Tiễn dẫn tả hữu vào chầu vua Ngô, dâng biếu quà cáp hậu hĩnh, Ngô Vương mừng lắm. Riêng Tử Tư lo lắng, nói: “Ngô  thế là vứt đi rồi.” Bèn can rằng: “Việt mới là căn bệnh tim gan; nay dù được đắc chí với Tề, cũng như ruộng đầy sỏi đá, có cũng chẳng dùng được. Hơn nữa, bài cáo của Bàn Canh có câu: ‘Con gì đã ngã, đừng để sống sót,’ nhà Thương nhờ cách ấy hưng thịnh.” Ngô Vương không nghe, sai Tử Tư đến Tề. Tử Tư gửi gắm con trai mình với nhà họ Bào ở Tề, rồi về báo cáo. Ngô Vương biết được, cả giận, ban Tử Tư thanh kiếm Chúc lũ để tự sát. Trước khi tự sát, Tử Tư nói: “Hãy trồng trên một cây tử để rồi có thể dùng làm quan tài. Móc mắt ta treo trên cổng thành phía đông để chứng kiến Việt diệt Ngô.

Họ Bào giết Tề Điệu Công, Ngô Vương hay tin, khóc ở quân môn 3 ngày, rồi theo đường biển tiến quân đánh Tề. Bị Tề đánh bại, Ngô Vương đành rút quân.

Năm thứ 13, Ngô mời vua Lỗ và vua Vệ đến hội nghị ở Thác cao.

Năm thứ 14, mùa xuân. Ngô Vương họp chư hầu ở Hoàng trì, muốn làm ở Trung quốc để bảo hộ nhà Châu. Tháng 6 ngày mậu tí, Việt Vương Câu Tiễn đánh Ngô. Ngày ất dậu, 5.000 quân Việt giao chiến với Ngô. Ngày bính tuất, Việt bắt sống Thái tử Hữu của Ngô. Ngày đinh hợi, Việt tiến vào đô thành nước Ngô. Người Ngô báo tin bại trận với Ngô Vương Phù Sai, Phù Sai ém nhẹm tin ấy. Có người tiết lộ ra ngoài, Ngô Vương nổi giận, chém đầu 7 người ngay dưới trướng. Tháng 7 ngày tân sửu, Ngô Vương tranh vị trí đứng đầu minh hội với Tấn Định Công. Ngô Vương nói: “Đối với nhà Châu, ta là trưởng.” Tấn Định Công nói: “Đối với họ Cơ, ta là .” Triệu Ưởng tức giận, muốn khởi chiến với Ngô, Ngô đành để Tấn Định Công đứng đầu. Ngô Vương xong hội thề, từ biệt Tấn, muốn đánh Tống. Thái tể Phĩ nói: “Có thắng cũng chẳng ở đó được.” Bèn dẫn quân về nước. Trong nước đã mất Thái tử, bỏ trống, Ngô Vương thì chu du quốc ngoại đã lâu, binh sĩ ai cũng mỏi mệt, thế rồi bèn sai sứ giả mang nhiều của cải xin hòa giải với Việt.

250px-wuwangfuchaimao

Mũi thương của Ngô Vương Phù Sai

Năm thứ 15, Điền Thường nước Tề giết Tề Giản Công.

Năm thứ 18, Việt càng hùng mạnh. Việt Vương Câu Tiễn dẫn quân đến đánh, phá quân Ngô ở Lạp trạch. Sở diệt Trần.

Năm thứ 20, Việt Vương Câu Tiễn lại đánh Ngô. Năm thứ 21, Việt vây kinh thành nước Ngô. Năm thứ 23, tháng 11, ngày đinh mão, Việt đánh bại Ngô. Việt Vương Câu Tiễn muốn chuyển Ngô Vương Phù Sai đến Dũng đông, cho ăn lộc một trăm hộ. Ngô Vương nói: “Tôi già rồi, chẳng thể thờ nhà vua được nữa. Ta hối không nghe lời Tử Tư, để mình rơi vào hoàn cảnh này.” Bèn đâm cổ tự sát. Việt Vương diệt Ngô, giết Thái tể Phĩ, cho rằng Phĩ bất trung, rồi lui về Việt.

Thái sử công nói: Khổng Tử nói rằng: “Thái Bá có thể gọi là bậc chí đức. Ba lần nhường thiên hạ, nhưng chẳng được ai biết đến mà khen.” Ta đọc văn cổ Xuân thu, mới biết nước Ngu ở Trung quốc và Câu ngô ở Kinh man là anh em. Lòng dạ của Diên lăng Quý Tử mộ nghĩa khôn cùng, thấy được những điều tinh tế vào hiểu rõ thanh trọc. Than ôi, quả là một nhà quân tử lãm tường uyên bác vậy!


[1] Theo Vi Chiêu đoán, “Sau này được Châu Võ Vương phong làm Ngô , nên gọi là Ngô Thái .” Người khác giải thích rằng: Quốc ngữ chép: “Tại hội nghị Hoàng trì, sứ giả của Tấn Định Công nói với Ngô Vương Phù Sai rằng: ‘Cầm Mệnh khuê là chịu mệnh vua, nên là Ngô chứ không phải Ngô Vương.’ Thế thì tước vị của Ngô vốn là . (Mệnh khuê là phù hiệu làm từ ngọc khuê được trạm trỗ tinh xảo, do Thiên tử đời cổ cấp cho chư hầu — nd). Tuy nhiên, theo Phạm Ninh, gọi là , vì là con cả, cũng như Trọng Ung và Quý Lịch đều có tự ghép với tên, nên là tự, và cũng là tước, còn tên là gì thì sử sách đã đánh mất.

[2] Theo Ứng Thiệu, “[Người vùng này] vì thường lặn lội nơi sông nước, nên cắt tóc ngắm, xăm trỗ lên mình hoa văn tựa thuồng luồng để tránh bị chúng cắn hại.”

[3] Tức Ngô thuộc hàng “nước ngoài”, không đứng trong số chư hầu nhà Châu như Ngu.

[4] Theo Tả truyện, Quý Trát đi chuyến này mục đích để giới thiệu vua Ngô với các nước chư hầu. Mặt khác, vì Quý Trát không đến Sở, đây cũng có thể là chuyến công cán nhằm tăng cường liên minh chống Sở.

[5] Chỉ chủ nhân ấp Thích, tức Tôn Văn Tử Lâm Phủ.

[6] Chiến thuyền lớn.